Giữa trưa, đoàn của Tùy Đường đến Bạch Mã Tự. Sau khi lễ bái, cầu phúc và nghe giảng kinh xong, nghỉ ngơi chốc lát thì đã đến giờ dùng bữa trưa.
Bạch Mã Tự là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được xây dựng sau khi Phật giáo truyền vào Trung Nguyên, tính đến nay đã hơn hai trăm năm lịch sử. Điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, điện Đại Phật từng nhiều lần được trùng tu, vừa cổ kính linh thiêng, vừa trang nghiêm tĩnh mịch. Trong điện, tượng Phật, Bồ Tát, La Hán, Thiên Vương đều được dát kim thân. Ngoài ra còn có cổng núi “Nhất môn tam động”, tượng ngựa đá tròn hai bên cổng giải thích cho tên gọi của chùa, Tàng Kinh Các nổi danh vì cất giữ kinh Phật, cùng với điện Tỳ Lô có hồ ước nguyện lớn nhất Lạc Dương. Ngày hôm ấy, sau khi thanh tịnh tại chùa, những nơi ấy đều tĩnh lặng sâu xa, khác hẳn với cảnh người đông như trẩy hội, hương khói mù mịt thường ngày – dù ở nơi cửa Phật mà vẫn như giữa chốn hồng trần xôn xao.
Vì thế, sau bữa trưa, các nữ quyến các phủ rủ nhau đi tham quan, lễ bái hoặc cầu nguyện. Chỉ có Tùy Đường mắt kém, được thị nữ dẫn đi dạo một vòng rồi nghỉ lại ở Thanh Lương Đài.
Thanh Lương Đài nằm sau ba đại điện, cách các điện phía trước một con đường nhỏ lát sỏi dài khoảng một dặm, dựa lưng vào cửa sau phía nam của Bạch Mã Tự, hai bên là rừng trúc che khuất – quả là chốn thanh tịnh hiếm có.
Lận Tắc từng gặp gỡ trụ trì – pháp sư Hoài Ân, như tri kỷ gặp lại, từng quyên tặng cả nghìn lượng vàng để tu sửa Thanh Lương Đài, rồi lấy đó làm nơi nghỉ chân khi rời thành. Những khi tâm trí rối loạn, cảm xúc bất an, hắn thường đến nơi này để tĩnh tâm.
Do đó, Thanh Lương Đài thường ngày không mở cửa đón khách, nhưng hôm nay được truyền lời từ Lận Tắc nên mới đặc cách đón tiếp, mà cũng chỉ tiếp đãi duy nhất một vị trưởng công chúa.
“Điện hạ có thể nghỉ chân thưởng trà ở đây, nếu muốn cầu quẻ hoặc nghe pháp, lão nạp sẽ sai người truyền lời.” Hoài Ân đưa nàng đến noãn các, chắp tay hành lễ cáo lui.
“Làm phiền pháp sư rồi.” Tùy Đường cúi người đáp lễ.
“Điện hạ, quẻ ở đây rất linh Người không đi hồ ước nguyện thì cũng nên thử xin một quẻ, nhờ pháp sư đoán xem.” Lan Tâm thấy từ lúc vào chùa đến giờ, Điện hạ không hề thảnh thơi như mọi khi, ngay cả lễ bái ba điện giữa trưa cũng lơ đãng, nên giờ tìm cách giải khuây cho nàng.
“Cô không có hứng.” Tùy Đường nghiêng mình trên ghế ấm bên cửa sổ, nhấm một miếng trái cây chay.
“Tư không thật chu đáo, đã cho người chuẩn bị chăn gối và đồ ăn nhẹ từ sớm để Điện hạ nghỉ trưa.” Lan Tâm, theo lời chú tiểu, lục tìm ra một tấm chăn mỏng sạch sẽ, vừa trải ra vừa nhìn ra cửa sổ phía bắc, “Nô tỳ nghe nói hôm nay Tư không duyệt binh ở nơi cách đây không xa, chừng hai mươi dặm, cũng bằng khoảng cách về thành.”
Tùy Đường khẽ “ừm” một tiếng.
“Điện hạ thấy khó chịu chỗ nào sao?” Lan Tâm đem chăn đến đắp cho nàng, cúi nhìn thì thấy quả chay trên bàn chỉ cắn một miếng.
Quả ngọt tươi mọng, bình thường công chúa chỉ cần ba năm miếng là ăn xong, hôm nay lại nhai thật chậm, thậm chí ăn một miếng liền bỏ!
“Tư không đối với Điện hạ tốt như vậy, là do Điện hạ đã cố gắng.” Trong phòng chỉ có ba người chủ tớ, Mai Tiết ngồi bên cạnh, vừa bóc hạt dẻ nướng thơm phức vừa dâng lên cho công chúa.
Tùy Đường chợt rùng mình khi nghe đến đó, rồi nhanh chóng gật đầu với thị nữ.
— Những dịu dàng ấy và tâm ý ấy, chỉ là nhiệm vụ mà thôi, là do a đệ căn dặn.
Nàng đem hạt dẻ trong tay đút cho Mai Tiết: “Cô bây giờ ăn không vô, các ngươi chia nhau ăn đi.”
“Điện hạ bị đầy bụng rồi sao?” Lan Tâm nhìn quả chay, lại nhìn hạt dẻ, “Nô tỳ đi xin pháp sư ít thuốc tiêu thực, hoặc người dậy đi dạo một vòng, cảnh ngoài kia rất đẹp.”
“Trưa nay hương cúng Phật nồng quá, hun đến choáng đầu, giờ lại thấy buồn ngủ.” Tùy Đường lắc đầu, kéo chăn lên, “Để cô yên tĩnh một chút, các ngươi cũng không cần canh ở đây, hiếm khi được ra ngoài, đi chơi ở điện trước đi.”
Hai thị nữ nghe vậy cũng yên tâm hơn: “Vậy nô tỳ với Mai Tiết thay phiên nhau ra ngoài, để một người canh Điện hạ ở hành lang.”
Mai Tiết: “Ta muốn đi cầu quẻ!”
Lan Tâm: “Ta muốn ra hồ ước nguyện!”
Mai Tiết: “Vậy ngươi đi trước, lát nữa đổi ta, cứ chơi vui, ta không vội…”
Lan Tâm: “Vậy ngươi canh Điện hạ cho kỹ.”
…
Tùy Đường nằm xuống, tiếng nói của thị nữ dần xa. Trong lò đồng hình đầu voi trong phòng, trầm hương chậm rãi phát tán. Giữa trưa, ba điện đều dùng loại hương này, nàng rất thích. Khi ấy khoảng cách xa lò nên không bị hun đến khó chịu.
Hôm nay vào chùa, trong lòng nàng nghẹn ứ, một phần là do nghe nói ba điện đều dát vàng thân Phật, khiến nàng nhớ lại năm ấy bên bờ Chương Hà, có quý nhân để xây tượng Dược Sư Phật mà bắt dân đi khai thạch vận chuyển, kết cục dân bị bắt không rõ sống chết, người thân ở quê lại mất trước. Bỗng nhiên nàng cảm thấy mọi chuyện đều vô nghĩa – nhất là hôm nay là ngày tưởng niệm hơn bốn trăm người chết thảm ở Kinh Kỳ, nhà nhà đều vì họ mà thắp đèn, dâng dầu cầu siêu, mong đường xuống Hoàng Tuyền suôn sẻ, sớm đến Cực Lạc.
Tùy Đường thoáng cảm thấy phiền muộn – người chết nào có nhận được vàng bạc thật, vậy thì những tiền bạc ấy về tay ai? Dùng để làm gì? Tiếp tục dát vàng xây tượng Bồ Tát sao?
Tùy Đường bật dậy, gọi Mai Tiết: “Đi mời pháp sư Hoài Ân đến, cô có chuyện muốn hỏi!”
Pháp sư Hoài Ân đến rất nhanh.
Công chúa đi thẳng vào vấn đề: “Dám hỏi pháp sư, hương hỏa trong chùa hưng thịnh như vậy, thì số tiền ấy được dùng vào đâu?”
Pháp sư đáp: “Dùng vào hai chỗ – một là ăn ở cho tăng nhân, duy trì sinh hoạt thường nhật trong chùa; hai là để tu sửa kim thân Phật, hoằng dương Phật pháp vô thượng.”
“Có thặng dư không?” Công chúa lại hỏi.
“Nếu có dư, sẽ dùng để thỉnh thêm Bồ Tát.”
“Vậy dư có nhiều không?”
“Bạch Mã Tự sở dĩ có thể tồn tại hơn trăm năm, một phần là vì mỗi năm đều dùng sáu, bảy phần tiền hương hỏa để thỉnh Phật. Phật đến chốn già lam, thì người đời cũng đến đây. Người đông thì hương thịnh, hương thịnh lại thỉnh được nhiều Phật, cứ thế xoay vòng.”
Công chúa gật đầu: “Cô hiểu rồi, làm phiền pháp sư, hiện tại không còn chuyện gì nữa.”
“Lão nạp cáo lui!”
Tùy Đường lúc này cảm thấy lòng nhẹ nhõm hơn, cuộn mình trong chăn trên giường tính toán mọi việc… Tuy đầu óc vẫn còn vương hình ảnh về hơn bốn trăm người chết thảm mà Mai Tiết nhắc đến, nhưng nàng nghĩ nếu kế hoạch của mình thành công, tuy không thể an ủi linh hồn đã khuất, ít ra cũng có thể giảm bớt cảnh tha hương, đói khổ cho những người còn sống – như vậy cũng là tốt rồi.
Mai Tiết tiễn pháp sư Hoài Ân rồi quay lại noãn các, nhẹ nhàng bước đến bên giường: “Điện hạ ngủ rồi sao?”
Tùy Đường chớp mắt, khăn lụa trắng hé lộ đường nét thanh thoát: “Có chuyện gì sao?”
Mai Tiết ghé sát bên giường: “Nô tỳ vừa nghe người nói chuyện với pháp sư, có phải người cảm thấy Phật Tổ, Bồ Tát không giúp được gì, nên muốn tự mình làm chút việc cho dân chúng phải không?”
“Không trách mẫu hậu nói ngươi thông minh.” Tùy Đường nghiêng người, “Cô vẫn chưa có biện pháp cụ thể, chỉ là nảy sinh một ý nghĩ như vậy thôi.”
Khi nói những lời này, Tùy Đường bỗng nhiên nghĩ tới Lận Tắc. Nàng muốn đem ý nghĩ của mình cùng hắn thương nghị, bởi lẽ hắn kiến thức uyên bác, quen biết nhiều, thực hiện hẳn sẽ dễ dàng hơn.
Song, khi ý nghĩ đó vừa qua đầu, Tùy Đường liền cứng đờ người trên giường. Đây là việc đem lại lợi ích cho dân chúng, lẽ nào nàng không nên thương lượng với a đệ? Sao người đầu tiên nàng nghĩ đến lại là Lận Tắc?
“Điện hạ—” Mai Tiết thấy nàng xuất thần, nhẹ giọng gọi, tay khẽ vuốt chăn mền.
Tùy Đường hoàn hồn, nàng không nghe thấy tiếng bước chân của thị nữ rời đi, chỉ cảm được hơi thở của người kia vẫn quanh quẩn bên mình. “Ngươi có chuyện gì muốn nói với cô?”
“Vâng!” Trong giọng Mai Tiết mang theo vài phần do dự, chậm rãi nói, “Lúc đến đây hôm nay, nô tỳ nhìn thấy vài kẻ ăn mày bên ngoài thành, bèn nhớ tới muội muội ở quê nhà.”
Nghe đến đây, thân thể Tùy Đường không nhúc nhích, song khuôn mặt lại hơi nghiêng đi, như thể muốn quay đầu lại.
Mai Tiết ngẩng đầu nhìn người trên giường, thấp giọng nói: “Năm xưa thất lạc nhau, chẳng biết nay ra sao. Có khi đã không còn nữa, có khi giống như nô tỳ, bị một nhà nào đó chuộc về làm tỳ làm nô. Như thế thì còn tốt! Nhưng…”
Tùy Đường cắn môi. Từ sau vụ án tàn sát hơn bốn trăm người ở Kinh Kỳ, Mai Tiết không dưới một lần nhắc đến muội muội. Mỗi lần nhắc đến, nàng ấy đều nói về những người đã chết kia — trong số đó có hài tử chưa hiểu thế sự, có lão giả tay không đánh nổi con gà, có phụ nhân mong mỏi cuộc sống tốt hơn, có hán tử cần cù lo toan gia kế… Nàng nói nếu muội muội của mình nằm trong số ấy, giờ chẳng qua chỉ còn là một đống tro tàn, một vong hồn lặng lẽ…
Tùy Đường có chút bài xích, nhưng thị nữ vẫn tiếp tục nói.
“Điện hạ, họ đều chết trong giấc ngủ, vốn đang mong mỏi tương lai tươi sáng, cuối cùng lại chẳng thể chờ được mặt trời ngày mai.” Mai Tiết nắm lấy tay Tùy Đường, than oán: “Điện hạ, họ thật oan uổng! Người nói thử xem, trong số đó có phải có muội muội nô tỳ không?”
Muội muội của Mai Tiết, dĩ nhiên là một bé gái.
Thế nhưng trong đầu Tùy Đường lại cứ hiện lên hình ảnh một bé trai.
Nàng muốn rút tay ra, muốn bảo nàng ta đừng nói nữa, nhưng lại chẳng động đậy được, cũng không thể mở lời. Đây chỉ là một tiểu cô nương đang tìm nơi trút nỗi sợ hãi của mình.
Nàng từng sống cô độc suốt nhiều năm, thấu hiểu nỗi đau khi chẳng có ai để sẻ chia. Bởi vậy, cuối cùng nàng chỉ nghiêng người hẳn, vuốt tóc sau đầu thị nữ, nhẹ giọng an ủi: “Đừng nghĩ nữa, đừng sợ.”
Mai Tiết áp mặt vào lòng bàn tay nàng, ánh mắt rơi lên gương mặt dịu dàng kia, nhìn đăm đăm vào nỗi bi thương chất chứa trong đó.
Tùy Đường mỉm cười với nàng ta, “Ngươi lên giường nằm, cùng cô nghỉ ngơi một lát.”
“Nô tỳ không dám.”
“Vậy cô ra lệnh cho ngươi lên.”
Mai Tiết nhìn nàng chằm chằm, lại quay đầu nhìn đồng hồ nước bên cửa, khẽ thưa: “Nô tỳ nghe theo lời Điện hạ.”
*
Bóng chiều dần ngả, trúc đen nghiêng mình giữa gió thu.
“Chúng ta thì thôi đi, ngay cả a mẫu cũng không được vào Thanh Lương Đài, Tam ca quả thật trọng sắc khinh thân.” Đoàn người Dương thị vừa dạo xong phía nam điện tự, lúc này vòng về hướng các điện phía sau, vừa hay nhìn thấy Thanh Lương Đài từ xa, Lận Hòa không nhịn được trêu chọc.
“Nơi thanh tịnh cửa Phật, cái miệng kia chẳng biết giữ gìn.” Dương thị lườm nàng, quẹo hướng dưới chân đình núi, vừa đi vừa nói: “Nó ấy à, miễn có thể yên ổn thành gia lập nghiệp, khai chi tán diệp, thì chính là đại hiếu với ta rồi. May mắn là nó cùng Điện hạ hòa hợp, ta thấy cũng yên tâm nhiều.”
Dương thị quay sang thở dài với cháu dâu Trang thị đi cùng: “Hôm đại hôn, nàng còn ở lì trong doanh trại, nói thật, ta cũng không chắc lòng nó sẽ nghĩ sao, sợ nó trách ta. Kết quả—” Dương thị thở dài một tiếng, “So với tưởng tượng thì tốt hơn nhiều, ao ước tại hồ này quả nhiên linh nghiệm.”
Trang thị vỗ nhẹ cánh tay Lận Hòa đang khoác tay mình, quay sang cười nói: “Tam lang là người có chủ kiến, nhưng cũng chẳng dám trái ý người. Giờ thế này là vừa khéo.”
“Phải đấy, thiếp thấy rõ ràng Tam ca đối với Điện hạ rất có tâm. Đại sự trong nhà, vẫn cần a mẫu làm chủ.” Mông Kiều đi bên trái dịu dàng tiếp lời, khéo léo lấy lòng Dương thị, cả đoàn người vừa cười vừa trò chuyện, cùng bước vào điện Tỳ Lô.
Hồ bát giác hiện ra trước mắt, Dương thị thúc giục hai người bên cạnh: “Các ngươi cũng đi cầu đi, nhanh lên.”
“Thiếp mọi sự đều thuận, không tranh với người ta.” Bên cạnh hồ ước nguyện, các vị nữ quyến được Dương thị mời hôm nay sau bữa trưa chẳng hẹn mà gặp, cùng tụ họp tại nơi này.
Phần nhiều là do hiếm khi chùa vắng vẻ như hôm nay, không cần chen chúc, ai nấy đều tranh thủ mà cầu khấn.
Lận Hòa nhanh chóng buông tay Trang thị, chạy đến bên hồ ước nguyện, nhắm mắt chắp tay khấn vái, trong lòng chỉ nghĩ đến Hà Chiêu năm xưa, nay là Thừa Minh.
“Con cũng đi đi, ở đây theo bọn ta làm gì.” Dương thị đẩy Mông Kiều.
“Thiếp có mẹ chồng thương yêu, Tứ lang cũng tốt, A Anh thì ngoan ngoãn, thiếp mãn nguyện rồi.”
“Nhiều con cháu mới là điều tốt nhất.” Dương thị đẩy nàng tới trước, “A mẫu còn đang mong mỏi đấy.”
“Vậy chúng ta cùng đi.” Mông Kiều và Trang thị mỗi người dìu một bên, cùng đi tới hồ ước nguyện.
Nắng thu êm dịu, ánh vàng lấp lánh nơi mặt hồ, tín nữ vây quanh, hương thơm thoảng thoảng, ai nấy đều thành tâm cầu phúc.
Ngay lúc ấy, tin tức trưởng công chúa bị ám sát từ Thanh Lương Đài truyền tới.
Thống lĩnh thị vệ nơi đó lập tức phát lệnh truy bắt, nơi tận cùng phía bắc dấy lên một mũi tên hiệu ngũ sắc, dùng để báo động và triệu gọi binh lính.
Mông Kiều từng dẫn binh ra trận, nhận ra tên hiệu của Đông Cốc quân, là người đầu tiên lập tức phản ứng. Nàng nhanh chóng cho toàn bộ nữ quyến lui vào điện Thiên Vương gần nhất, lại gọi hai đội hộ vệ ở cửa trước tới, một đội bảo vệ mọi người trong điện, một đội theo nàng chạy đến Thanh Lương Đài.
Theo lý, nàng là người ở xa nhất so với Thanh Lương Đài. Ấy vậy mà khi nàng dẫn người tới nơi, hai người dẫn đội khác là phu quân của nàng — Lận Thử, và đường huynh Mông Dạng — cũng vừa mới tới nơi.
Một người trấn thủ Tây Sơn, một người trấn thủ Đông Đình, cả hai đều gần Thanh Lương Đài hơn nàng một nửa.
“Điện hạ thế nào rồi? Thích khách đâu?” Mông Kiều giận dữ trừng hai nam nhân, chưa kịp trách cứ đã bước lên kéo một thị vệ Thanh Lương Đài để hỏi.
Nghe nói trưởng công chúa bị ám sát, song cả ba người vừa đến nơi, đều cảm thấy có điều bất thường.
Cửa viện Thanh Lương Đài đang mở rộng, nhưng cửa sổ và cửa chính trong điện vẫn đóng chặt, không hề có dấu hiệu giằng co hay phá hoại.
“Điện hạ bình an, vẫn đang trong phòng. Thích khách chết tại chỗ.” Thị vệ hồi đáp.
Ba người nghe vậy, đều lộ vẻ kinh ngạc, tức thì lao vào trong.
Chính là cảnh tượng mà giờ đây Lận Tắc chứng kiến — Tùy Đường toàn thân đẫm máu, mềm nhũn ngồi dưới đất, trong lòng ôm lấy một thi thể, bên chân cũng nằm một xác người.
“Mưu phạm chính là lão bà kia. Trước đó vẫn luôn ngồi khóc ở cửa sau, Mai Tiết nghe tiếng sợ nàng quấy nhiễu công chúa, liền ra ngoài đuổi đi. Về sau bà lão xin nước uống, Mai Tiết thấy thế bèn dẫn bà ta vào.” Mông Kiều thuật lại lời lính canh cửa sau cho Lận Tắc nghe, “Theo lời thị vệ trong viện, bà ta vào trong khoảng hai nén nhang thì có tiếng Mai Tiết hô ‘có thích khách’. Khi họ xông vào, chỉ thấy Mai Tiết đã che trước người công chúa, thân bị trúng kiếm. Bà lão kia thấy người tới không kịp thoát thân, liền đập đầu vào tường tự tận. Sau đó, chính là cảnh tượng mà chúng ta thấy bây giờ.”
Mông Kiều dừng một chốc rồi nói tiếp: “Còn về chuyện trong hai nén nhang ấy trong phòng rốt cuộc xảy ra điều gì, hiện tại chỉ có Điện hạ là rõ ràng.”
“Mai Tiết kia sao có thể để người lạ vào noãn các, còn dẫn tới tận điện của công chúa?” Lận Thử rốt cuộc không nhịn được mà lên tiếng, “Hành sự như vậy, chẳng phải là thay ta thanh trừng sạch sẽ cả noãn các này hay sao? Một chén trà, chẳng lẽ không thể mang ra cửa đưa cho bà ta?”
Lời vừa dứt, hắn đã phất tay áo bỏ đi.
Mông Kiều không nói thêm lời, chỉ đưa ánh mắt ra hiệu cho đường huynh, cùng nhau rời khỏi phòng.
Trong phòng giờ chỉ còn lại hai kẻ sống và hai thi thể.
Lận Tắc tiến về phía Tùy Đường, chẳng tìm được chỗ nào để đặt chân.
Máu của Mai Tiết loang kín cả gian phòng. Tùy Đường ngồi dưới đất, tựa như chìm trong biển máu. Nguồn máu từ trong lòng nàng, điểm kết thúc ở nơi chân nàng.
Thân thể nàng không một vết thương, đến một chút da trầy cũng không có.
Nhưng toàn thân lại nhuộm đầy máu.
Băng lụa che mắt trắng muốt, y phục màu vàng nhạt, hoặc vấy máu loang lổ, hoặc đã bị máu tươi thấm đỏ.
Nàng không bị thương, nhưng lại chịu một vết đau còn khó lành hơn cả đao kiếm.
Lận Tắc cúi người, muốn kéo thi thể ra khỏi lòng nàng. Nàng rất hợp tác, buông tay ra, ngẩng đầu nhìn về phía hắn bằng đôi mắt đã mù.
Nàng cất lời, giọng rất nhỏ, nhưng hai người gần nhau, Lận Tắc vẫn nghe rõ từng chữ.
Nàng nói: “Hơn một canh giờ trước, Mai Tiết nói rất nhớ muội muội thất lạc của nàng, kể lể nỗi đau trước mặt ta. Ta không biết nên an ủi nàng thế nào, chỉ đành xoa đầu nàng. Nhưng trước đó, Kinh Kỳ bị tàn sát hơn bốn trăm người, nàng rất sợ, sợ muội muội mình cũng nằm trong số ấy. Ta xoa đầu cũng chẳng thể khiến nàng yên tâm, bèn bảo nàng lên giường cùng ta nằm ngủ. Khi ta ở Chương Hà, cũng thường xuyên sợ hãi, nhưng chỉ có một mình. Khi ấy ta thường ôm chăn, giả như ôm người thân của mình, thì sẽ không sợ nữa. Vì thế ta ôm lấy nàng, mong nàng đừng sợ. Ôm lấy nàng, ta cũng ngủ rất ngon. Thân thể nàng mềm mại, ấm áp, như đại tỷ, như mẫu thân…”
“Nàng dịu dàng như đại tỷ, nghe ngoài kia ồn ào liền ra ngoài xua đuổi họ, không cho họ làm ồn đến ta; nàng từ bi như mẫu thân, thấy có người xin nước liền mời vào phòng…”
“Nàng… nàng…” Tùy Đường không biết từ khi nào đã bắt đầu rơi lệ, nước mắt thấm qua băng che mắt nhuộm đỏ, lăn dài trên má thành giọt huyết lệ, chỉ tay về phía thi thể bên chân, “Nàng, Mai Tiết đã sai rồi, nàng làm sai rồi. Nàng không nên để bà ta vào! Tay chân của ngươi nói rất đúng, sao có thể để bà ta vào? Nếu bà ta không vào, ta cũng sẽ không biết, con trai, cháu trai của bà ấy đều đã chết, đều chết cả rồi, chết trong đêm không lâu trước đây, bị vứt ra bãi tha ma, thiêu thành tro…”
Tùy Đường bật khóc thành tiếng, khóc đến toàn thân run rẩy.
Mùi máu tanh nồng khiến nàng choáng váng, dòng máu sền sệt khiến nàng mê mệt. Cảm giác trên người toàn là sự mềm mại, ấm áp của Mai Tiết, bên tai vẫn văng vẳng tiếng chất vấn của bà lão.
Bọn họ thực sự đã quá gần nàng.
Mai Tiết mới vừa ôm nàng mà ngủ cùng, nước bọt của bà lão phun lên má nàng vẫn còn nóng.
“Con trai và cháu trai bà ấy đều chết cả, nên bà ấy muốn báo thù. Nhưng bà không giết được người đó, chỉ có thể giết thê tử của y. Rồi Mai Tiết muốn bảo vệ chủ nhân, liền bị giết. Còn bà ta, báo thù không thành, trốn cũng không được, liền đập đầu mà chết. Vậy là… lại có thêm hai mạng người nữa!”
“Lại thêm hai mạng người…” Tiếng khóc của Tùy Đường dần dần nhỏ lại, giọng chất vấn vang lên, “Ngươi đã giết hơn bốn trăm người, thì cũng chẳng bận tâm thêm hai mạng nữa, đúng không?”
“Hơn bốn trăm mạng ấy là do ngươi giết, đúng không?” Nàng quỳ trên đất, một tay níu lấy vạt áo hắn, gào lên.
Thế nhưng, sau khi tiếng gào kiệt sức mà dừng lại, trong phòng lại chìm vào một khoảng yên lặng dài. Lận Tắc vẫn không nói gì. Cho đến khi gió tây thốc vào cửa sổ thổi lồng lộng, hắn mới như từ mộng tỉnh mà hạ quyết tâm. Giữa nàng và hắn, bốn trăm mạng người ấy chỉ là điểm bắt đầu. Về sau còn có cốt nhục thân tộc, giang sơn xã tắc. Sớm muộn cũng phải đối mặt, thà sớm còn hơn muộn.
Thế nên, hắn dứt khoát không đỡ nàng dậy, chỉ siết lấy bàn tay vẫn ẩn trong ống tay áo rộng của nàng, gạt tay áo ra, rút lấy chiếc trâm nhọn trong tay nàng ném đi.
Rồi mới đứng dậy, thản nhiên thừa nhận: “Phải.”
Hắn nhận lấy việc ấy, lại còn tiếp tục nói, như thể chuyện hoang đường từ trong mộng.
“Hai ngày tới hãy tĩnh tâm lại, rồi ngẫm kỹ mọi chuyện hôm nay từ đầu tới cuối, xem có chỗ nào vô lý, bất hợp lẽ thường, lý ra cho rõ rồi nói cho ta biết.” Hắn cúi người, nâng cằm Tùy Đường, “Nếu không nghĩ ra, hoặc giả vờ không nghĩ, thì nàng đừng mơ rời khỏi phủ Tư Không nửa bước, càng đừng mơ gặp lại thân nhân của mình.”
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.