Tên phạm nhân bị quất đau thì hét lên đầy đau đớn. Như thể nhận ra sát ý của người đánh, gã lập tức sợ tới mức hai chân mềm nhũn, không kịp lo nghĩ cho vết thương trên người, liên tục gọi trời gọi đất gào khóc kêu oan.
Tống Nghị siết chặt sợi roi trong tay. Phóng ánh mắt sắc lẹm qua phía kẻ kia, thấy gã ta mỏ chuột tai khỉ vẻ mặt gian trá, nhìn kiểu gì cũng không giống người lương thiện thì lòng chợt thắt lại, sắc mặt cũng lộ ra vẻ khó coi.
Hắn giơ roi về chỉ vào mặt gã ta, hét to: “Rốt cuộc ngư phù trong tay ngươi là từ đâu mà có? Mau thành thật khai báo!”
Thấy tư thế này đào phạm kia đâu dám ậm ờ nữa, sau khi hô hai câu oan uổng thì vội vàng kể rõ mọi chuyện. Cuối cùng còn khóc lóc thảm thiết thề thốt rằng gã sẽ không bao giờ làm chuyện phạm pháp nữa, mong Đại nhân tha cho gã lần này.
Hóa ra gã chỉ là một thương nhân đi buôn hàng hóa từ Bắc vào Nam, có lần về thôn mua da thú thì vô tình gặp được một người thợ săn đeo ngư phù trên hông. Thợ săn kia không biết chữ nên chỉ coi miếng ngư phù là đồ trang trí đeo lên để khoe khoang. Nhưng gã lại nhận ra đó là vật gì. Nghĩ đến chuyện mỗi lần chở hàng vào thành đều bị đánh thuế, hàng hoá vận chuyển càng xa thì thuế càng cao, tiền lãi của gã đều bị hao hụt. Nhưng nếu sở hữu miếng ngư phù này thì sẽ khác. Có ngư phù trong tay, hầu hết lính gác thành đều không dám kiểm tra gã. Vừa tiện lợi còn không bị đánh thuế, vậy chẳng phải sẽ kiếm chác được càng nhiều hơn sao?
Vì thế gã đã bỏ ra mười lượng để mua lại từ thợ săn. Sau đó gã đánh liều dùng ngư phù để lừa gạt qua cổng. Sau vài lần, thấy không ai dám kiểm tra, lá gan cũng dần lớn hơn, đi đến nhiều vùng xa hơn. Đây là lần đầu gã đến Duyện Châu, vốn định kiếm một khoản lớn, không ngờ lại bị tóm sống.
Biết không phải giết người cướp của mà là mua từ tay người khác, sắc mặt Tống Nghị tốt hơn chút, nhưng vẫn nhìn chằm chằm gã, lớn tiếng tra hỏi: “Thợ săn kia ở đâu?”
“Lương… Lương Châu.”
Lương Châu. Tống Nghị chợt căng chặt, sau đó lại thoáng lộ ra vẻ ‘quả nhiên là vậy’. Hắn đoán không hề sai, cuối cùng nàng vẫn đến Tây Bắc.
Sau khi hỏi nơi ở cụ thể cũng như tên họ và diện mạo của thợ săn kia, Tống Nghị liên tục hạ lệnh cho Phúc Lộc lập tức dẫn người đến Lương Châu bắt người. Sau đó lại quay ra cáo từ với chúng quan viện Lan Lăng. Chỉ nói đang có chuyện quan trọng không tiện ở lâu, cũng mời bọn họ hôm khác đến Tô Châu làm khách, đến lúc đó sẽ nhiệt tình đón tiếp.
Bái biệt xong, Tống Nghị ra lệnh áp giải tên phạm nhân trở về Tô Châu.
Kể từ ngày ấy, Tống Nghị vẫn luôn ở phủ Tổng đốc chờ tin tức.
Từng ngày trôi qua, trong lòng Tống Nghị cứ mãi được lo mất. Tuy hắn không muốn thừa nhận, nhưng sự thật là vậy.
Lần này hành tung của nàng đã bị lộ, chờ Phúc Lộc qua đó tra rõ ngọn ngành là có thể tóm được nàng. Nếu việc này có thể thuận lợi như thế thì tốt, nhưng nếu nàng tinh ranh đến mức đã trốn mất dạng từ lâu, hoặc là đã…
Tống Nghị chán nản thở dài một hơi. Hắn không muốn tiếp tục nghĩ về chuyện này nữa, chỉ tự nhủ đợi thêm chút nữa thôi là mọi chuyện kết thúc rồi. Khi đó, mọi thứ sẽ qua. Tuy nghĩ vậy, nhưng sự khó chịu cứ mãi quẩn quanh trong lòng.
Cho đến mười ngày sau, cuối cùng Phúc Lộc cũng trở lại. Dĩ nhiên là dẫn theo tên thợ săn kia.
Tống Nghị liếc mắt qua đám người trở về mấy lần, thế nhưng vẫn không thấy bóng dáng mà hắn đang tìm kiếm.
Tâm trạng của hắn chưa kịp lắng xuống đã thấy Phúc Lộc cúi đầu xuống, có vẻ bất an mà khẽ bẩm chuyện với hắn.
Đầu óc Tống Nghị bất chợt trống rỗng.
Sau một tiếng thở nặng nề, hắn đột nhiên đứng dậy nhìn chăm chằm Phúc Lộc, ánh mắt vừa âm u vừa dữ tợn: “Ngươi nói cái gì?”
Phúc Lộc không dám lặp lại, song trong lòng càng thêm thấp thỏm, càng cúi gằm mặt xuống.
Chuyện hắn ta mới bẩm, là về cái chết của Hà Hương cô nương.
Không khí xung quanh rơi vào một khoảng lặng chết chóc.
“Là ai?” Một lúc sau mới có tiếng hỏi chuyện khô khốc vang lên. Hai chữ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại khiến người nghe hãi hùng khiếp vía.
Phúc Lộc vội sai hạ nhân ở sau dẫn gã thợ săn tới. Tống Nghị dời mắt qua gã thợ săn sợ sệt quỳ bên dưới.
Tên thợ săn kia chỉ cảm thấy ánh mắt ở trên như một lưỡi dao găm đang đâm vào từng thớ da thớ thịt trên người gã.
“Là ngươi, thấy tiền mờ mắt, cướp của giết người?” Tống Nghị cầm lấy trường đao treo trên tường, lòng bàn tay vuốt nhẹ hoa văn ở trên, chậm rãi hỏi.
Nhả chữ cực chậm, giọng điệu thản nhiên.
Nhưng từng chữ lọt vào tai đều vô cùng đáng sợ.
Thợ săn kia mặt cắt không còn giọt máu, gã cũng biết lúc này mà không giải thích rõ e là sẽ chết ngay tại chỗ. Nhưng sức ép khủng khiếp của người kia mang đến khiến gã tay chân bủn rủn, miệng cũng run rẩy kịch liệt, không thể thốt ra được tiếng nào.
Phúc Lộc chỉ có thể cắn răng nói đỡ: “Đại nhân, không phải do tên thợ săn này làm, gã chỉ vô tình nhặt được ngư phù lúc lên núi đi săn.”
Tống Nghị lại quay sang nhìn chằm chằm Phúc Lộc.
Phúc Lộc cúi đầu thật thấp: “Nhặt được ở… bãi tha ma ạ.”
Tống Nghị siết chặt chuôi đao, cơ bắp trên người nổi phồng lên như hung thú sắp phản công.
Tay Phúc Lộc run run lấy một chiếc hộp từ trong tay áo ra, dâng lên bằng hai tay: “Nô tài nhặt được thứ ở bãi tha ma.”
Tống Nghị nhận lấy, sau khi đứng im một lúc lâu, hắn mới hít một hơi thật sâu, mở nắp hộp ra. Bên trong là một mảnh vải may quần áo. Là tơ lụa trơn mềm sáng mịn.
Tống Nghị chỉ liếc qua là biết nó có xuất xứ từ Tô Châu. Hắn nhìn chằm chằm một hồi lâu, sau đó đóng mạnh cái nắp lại.
Tiếng đóng nắp hộp nghe thật nặng nề và ngột ngạt.
Toàn bộ người trong phòng nghị sự đều nín thở, im như thóc. Bởi bọn họ đều đến Lương Châu nên ai cũng biết, trên miếng vải đó không chỉ dính bụi, mà còn dính máu…
—
Sau những ngày hè chói chang rực rỡ, lại đến trời thu ngào ngạt hoa quế, cuối cùng là từng đợt gió lạnh thấu xương của mùa đông giá rét. Ngoảnh đi ngoảnh lại, Tô Khuynh đã ở thành Giang Hạ được hơn nửa năm rồi.
Mấy mùa khác ở thành Giang Hạ thì khỏi phải bàn, duy chỉ có tiết trời mùa đông này, cái kiểu thời tiết vừa ẩm ướt vừa rét căm căm này thật sự có thể len lỏi vào tận xương cốt. Không những vậy không khí trong nhà còn lạnh hơn cả, thay vì ở lì trong nhà tránh gió lạnh thì ra ngoài chạy tung tăng còn sướng hơn. Dù sao ra bên ngoài còn có ánh nắng mặt rời, tuy không ấm áp mấy nhưng có còn hơn không.
Sau mấy ngày chịu đựng thì cuối cùng Tô Khuynh chịu không nổi nữa, chấp nhận vung tay bỏ ra số tiền lớn mời thợ xây đến thiết kế cho nàng một cái giường đất ở căn buồng phía Nam.
May là thành Giang Hạ có khá nhiều thương nhân đến từ phương Bắc. Có vài gia đình hơi giàu có đã mua nhà ở khu này, nhưng vì sợ không thể chịu được cái thời tiết khắc nghiệt của mùa đông nên nhiều người đã chọn làm giường đất theo kiểu phương Bắc. Vì có sẵn thị trường, thế nên thợ xây trong vùng đã học thêm nghề này. Việc này khiến Tô Khuynh cảm thấy vô cùng may mắn, nếu không nàng đã phải tự đi mày mò rồi.
Có giường đất, những ngày không đi đánh xe thì Tô Khuynh đều sẽ khua xe bò lên núi nhặt củi, nhờ đó mà ngày nào giường đất cũng được củi lửa nung nóng. Trải chăn đệm rồi nằm xuống chiếc giường đất, cái cảm giác ấm áp dễ chịu kia quả là khiến người ta thoải mái thở một hơi thật dài, chỉ ước có thể gạt hết mọi chuyện rồi nằm ườn trên đó cả ngày.
Sau mười ngày là đến một ngày nghỉ, Tô Khuynh vẫn dắt xe bò đi làm, tiện thể ghé qua cửa hàng mua chút nhu yếu phẩm đủ dùng trong mười ngày. Như thế này thì mấy ngày khác không phải ra ngoài nữa rồi.
Ban ngày tuyết rơi lất phất, đêm đến trời liền trở lạnh.
Tô Khuynh đốt giường đất cho thật nóng, vừa lau khô chân định leo lên giường thì đột nhiên nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng đập cửa dồn dập.
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.