Tính tình Yến Dực xưa nay nói một là một, Yến Trang quá hiểu. Vừa nghe lời hắn đã ngầm mang sát ý, y liền ho khẽ một tiếng, lên tiếng nhắc nhở:
“Triệu Lăng không thể động vào.”
Không những không thể động, mà còn phải trông nom cẩn thận trong chuyến hành trình về Lạc Dương lần này.
“Quảng Dương hầu đã có thể dạy ra một đứa con như vậy,” Yến Trang cụp mắt thấp giọng, “...nếu thật sự mất đi hắn, chẳng phải Quảng Dương hầu sẽ chẳng còn gì phải kiêng dè nữa hay sao.”
Đến lúc đó, chỉ cần mượn cớ báo thù cho thế tử, muốn làm chuyện gì cũng có thể danh chính ngôn thuận mà làm ra, mọi hành vi dị thường đều là có thể dự liệu.
Cho nên lần này sau khi tiếp được thánh chỉ, Quảng Dương hầu mới dám để Triệu Lăng hồi kinh. Bởi ông ta biết rõ Hoàng thượng không chỉ sẽ không động thủ, mà còn sẽ đích thân phái người trọng điểm trông coi Triệu Lăng, không để kẻ khác thừa cơ hạ thủ.
Lẽ đạo đơn giản như thế, sao Yến Dực không biết? Thế nhưng hắn vẫn chậm rãi cất lời, thản nhiên như thường:
“Không chết ở Lạc Dương là được.”
Yến Trang lập tức thấy ngực tức nghẹn, hiếm khi mang ra vài phần khí thế đế vương ở trước mặt đệ đệ, trầm giọng nói:
“Tuyệt đối không được. Hành trình lần này, hắn nhất định phải bình an trở về U Châu.”
Yến Dực chẳng hề lùi bước, thanh âm vẫn lãnh đạm như cũ:
“Vậy thì chết ở U Châu.”
Một câu ấy buông ra, gác mái bỗng chốc lặng ngắt như tờ.
Yến Trang không nói thêm chữ nào, nhưng cũng chẳng thể nói là không thể. Chỉ là lồng ng.ực không ngừng phập phồng, mặt trầm xuống, ánh mắt nhìn về phía giáo trường, hồi lâu sau mới dường như đã kiềm chế được nỗi tức giận. Y đổi giọng, lại như một huynh trưởng đầy thâm tình mà chuyển sang chuyện khác:
“Lần này trẫm gọi ngươi hồi kinh, là có mấy việc muốn cùng ngươi bàn bạc.”
Việc đầu tiên cần xử lý, vẫn là chuyện lũ lụt ở Giang Nam dẫn đến hàng loạt hậu quả. Quốc khố trống rỗng, khắp nơi thiếu hụt ngân sách, việc này kéo dài từ vụ mùa thu năm ngoái tới nay vẫn chưa giải quyết xong, việc tu sửa sau thiên tai chưa có tiến triển, số lượng dân lưu tán cũng ngày một gia tăng.
Từ khi lên ngôi tới nay, Yến Trang luôn xem trọng danh tiếng trong dân gian, được bách tính ca ngợi là bậc minh quân nhân từ. Y không muốn dễ dàng tăng thuế, một khi mở miệng thu thêm bạc, ấy chính là thất tín với dân.
Chuyện quốc khố trống rỗng cũng chẳng thể trách y. Tiên đế khi còn tại vị là bậc kiêu dũng thiện chiến, vừa lập quốc đã mở rộng binh mã, tu sửa công trình phòng ngự bốn phương. Lại để thu phục lòng người, ngài ban thưởng trọng hậu cho quần thần, chưa từng keo kiệt.
Quách Khuông năm xưa chính là dựa vào thời cơ ấy mà một bước lên mây, ngày ngày ca tụng tiên đế, nghe đâu chỉ riêng sách chép công đức đã có hơn trăm quyển. Tiên đế sủng ái vô cùng, thưởng ban cho lão ta không tiếc tay. Khi ấy Âm thị chưa từng được tìm thấy, mà Quách thị lại là người của Hoàng hậu, nên dù Quách Khuông âm thầm gom góp của cải, tiên đế cũng chỉ nhắm mắt làm ngơ.
Nay Yến Trang đã đăng cơ kế vị, Quách Khuông lại như cá chạch lẩn sâu, tuyệt chẳng để lộ bất kỳ sơ hở nào, càng không cho y có cơ hội tóm lấy.
“Này thiên hạ chẳng lẽ là của riêng trẫm hay sao?” Nhắc tới việc ấy, Yến Trang liền giận sôi gan, “Thân là triều thần, quốc gia gặp nạn không biết góp sức, lại còn vơ vét giấu giếm sau lưng. Đặc biệt là Quách Khuông, chính là kẻ đứng đầu trong bọn!”
Âm thị từng nhiều lần bị Quách thị hãm hại. Dù là việc hậu cung, nhưng sau khi Âm thị được lập làm hậu, vẫn nhiều lần dặn dò hai huynh đệ bọn họ đừng nên liên lụy Quách gia. Xét theo đạo lý làm thần tử, Quách gia quả thực từng là người được tiên đế tín nhiệm.
Chỉ là nể tình tiên đế, Yến Trang mới nhịn cho Quách gia tới tận bây giờ.
Bất chợt, Yến Trang hỏi:
“Ngươi từng đọc qua quyển ‘Lục ký nhặt được báu vật’ chưa?”
“Chưa từng.” Yến Dực từ trước đến nay chẳng thích những loại hí khúc nhàn thoại.
“Hoàng kim làm khí, bạch ngọc lát đường.” Yến Trang cười lạnh, “Ngay cả trẫm cũng chưa từng xa hoa đến thế, vậy mà Quách gia lại dám sống như bậc thiên tử.”
Trong sách có đoạn viết, Quách phủ chứa hơn trăm triệu lượng hoàng kim, nuôi hơn bốn trăm gia nhân, trong phủ lầu các cao ngất, còn dựng riêng một toà vàng làm nơi cất châu báu.
“Nhàn thoại thì ắt sẽ khoa trương ít nhiều.” Yến Dực nhàn nhạt nói.
Yến Trang lại nghiêm giọng:
“Không có lửa sao có khói. Quách gia rốt cuộc ra sao, chẳng lẽ ngươi thật sự không biết?”
Nếu nói đến thù hận với Quách gia, e là Yến Dực còn sâu hơn cả hắn.
Quả nhiên, lời vừa dứt, sát khí trong mắt Yến Dực liền đậm hơn mấy phần. Hắn chậm rãi ngẩng đầu, giọng trầm lạnh lẽo:
“Vậy thì lấy danh nghĩa Quách Khuông bí mật thông đồng với Đông Hải Vương mà luận tội.”
Yến Trang nhất thời không kịp phản ứng, chỉ cau mày, vẻ mặt ngờ vực.
Mãi đến khi Yến Dực đem kế sách Tống Tri Huệ đề ra trình bày rõ ràng, Yến Trang mới bừng tỉnh, đứng lặng hồi lâu không nói nên lời.
Cả đời này, y chưa từng nghe qua một mưu kế hiểm độc đến vậy. Nếu Đông Hải Vương và Quách Khuông thật sự không có lòng phản nghịch, thì một người phải hồi kinh, một người phải nộp tiền bạc—ai cũng không thể chối từ. Còn nếu quả thực có tâm mưu phản, vậy thì có thể nhân cơ hội này nhổ cỏ tận gốc, càng hay là những khoản tiền kia cũng sẽ không cần bỏ qua. Một chiêu này, đúng là vừa diệt trừ hậu hoạn, lại giải được khốn khó trong lòng hắn.
“Diệu thay, diệu thay, diệu thay a…” Yến Trang lặng một thoáng, liên tục tán thưởng, nhưng nghĩ đến tận cùng, lại là ưu tư trùng trùng hiện lên trong ánh mắt.
“Không được.” Yến Trang nghiêm chỉnh khoát tay, “Nếu mọi chuyện rốt cuộc đi đến bước cuối cùng, vạn nhất hai kẻ kia quả thật đem mật tín dâng hồi kinh để tìm trẫm, đến khi đó lại phải để ngươi đứng ra gánh tội, ngươi nghĩ thử xem, danh tiếng của ngươi còn giữ được sao?”
“Danh tiếng?” Yến Dực cúi mắt chỉnh lại tay áo, thản nhiên cất giọng, “Từ bao giờ ta còn có thứ gọi là danh tiếng để giữ?”
Ham chém giết, tính khí quái dị, hỉ nộ vô thường, không gần nữ sắc, còn bị đồn có sở thích Long Dương chi hảo… ngay cả bản thân Yến Dực cũng chẳng đếm xuể những điều tiếng gièm pha kia.
Yến Trang lại một lần nữa trầm mặc. Nhớ tới sáng nay vừa biết Yến Dực hồi kinh, lại mang theo một nữ tử bên người, trong lòng y liền nổi lên nghi ngờ, sợ rằng chứng bệnh của Yến Dực khỏi rồi, lại có ý nghĩ khác, thậm chí mưu đồ đế vị. Nào ngờ đến cuối cùng, mưu kế Yến Dực bày ra lại chẳng màng đến an nguy bản thân, tự đem mọi con đường lui đều phơi bày trước mặt Yến Trang.
Phải biết rằng, chỉ cần Yến Trang có một chút bất tín, y lập tức có thể mượn cớ chứng thực Yến Dực mưu nghịch, đến lúc đó là giết hay tha, đều chỉ nằm trong một lời của hoàng đế.
Dẫu là ruột thịt cùng mẹ sinh ra, nhưng tội mưu nghịch là trọng tội bậc nhất, Yến Trang giết hắn cũng chẳng sợ hậu nhân lên án.
Ấy vậy mà Yến Dực vẫn chọn đem kế này trình ra, tuyệt không giữ cho mình chút đường sống nào.
Yến Trang đưa tay muốn vỗ vai Yến Dực, nhưng tay vừa nhấc lên liền khựng lại giữa không trung, cuối cùng chỉ lặng lẽ rũ xuống, cúi đầu khẽ giọng: “Để trẫm suy nghĩ thêm.”
Yến Dực nhíu mày, rõ ràng không vui. Thân là đế vương, sao có thể do dự không quyết? Kế này từ miệng Tống Tri Huệ mà ra, hắn đã sớm hạ quyết tâm từ ngày ấy rồi.
Một hồi trầm lặng qua đi, Yến Trang chậm rãi thở dài.
Trong đầu lại bất giác nghĩ đến chuyện nữ tử kia—đã biết thì cứ hỏi thẳng, còn hơn cứ đoán mò mệt tâm mệt trí. Y cất giọng: “Trẫm nghe nói bên cạnh ngươi có một nữ tử, chẳng hay bệnh tình của ngươi có chút thuyên giảm?”
Đối với việc bị âm thầm thăm dò, Yến Dực không lấy làm để tâm, đây là điều đế vương nên làm. Nếu là hắn làm hoàng đế, hẳn còn thâm sâu hơn cả huynh trưởng.
Hắn giương mắt, phóng tầm nhìn về phía sân náo nhiệt, lãnh đạm đáp: “Chỉ là một món đồ chơi, không đáng nhắc đến.”
“Đồ chơi?” Yến Trang rõ ràng khơi dậy hứng thú, giọng mang vài phần dò xét: “Ngươi không phải vẫn bệnh đến mức không thể gần nữ sắc sao?”
“Ai nói phải động tay mới khuây khỏa được?” Yến Dực sắc mặt lạnh băng, song trong đáy mắt lại thấp thoáng một tia dị sắc, “Chỉ cần có lòng, biện pháp không thiếu.”
Yến Trang không ngờ đệ đệ mình—kẻ mà hơn hai mươi năm qua người sống chớ gần—nay lại có thể mở lòng, mà nghe qua thì nữ tử kia hẳn đã khiến hắn vừa lòng. Nếu không, hậu viện Yến Dực mỹ nhân như mây, sao lại chỉ mang theo một người?
“Ngươi thích là được.” Yến Trang cười nói.
Yến Dực vẫn lạnh mặt như cũ, giọng khinh bạc: “Thích hay không có gì khác biệt, chơi đủ rồi thì giết.”
“Ai nha…” Yến Trang bị hắn chọc cạn lời, “Ngươi đừng có suốt ngày đánh đánh giết giết nữa. Mẫu hậu bao năm nay vì ngươi mà hao tâm tổn trí, nếu quả thật là người hợp tâm ý, bất kể xuất thân ra sao, vi huynh đều có thể thay ngươi làm chủ. Nếu không muốn nâng nàng làm phi, chí ít cũng có thể phong làm huyện chúa, như vậy vào cửa cũng không ai dám chê bai gì.”
Yến Trang cố ý đổi cách xưng hô, lấy thân huynh trưởng mà khuyên nhủ, thật lòng muốn giúp hắn. Nào ngờ Yến Dực không cảm kích, sắc mặt bỗng chốc trầm xuống, ánh mắt lạnh lẽo nhìn chằm chằm về phía Triệu Lăng nơi xa, trầm giọng nói: “Muốn làm chính thê của Cô? Nàng không xứng.”
Phía dưới, trong sân, Triệu Lăng xoay người xuống ngựa, đưa cung tiễn trong tay cho Vương Lương.
Đại công chúa chậm rãi bước về phía hắn, nhưng Triệu Lăng vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị, chỉ hành lễ qua loa.
Trên mặt công chúa lộ rõ vẻ ái mộ lẫn kính phục, nhưng tiếc rằng hồng nhan có ý, quân tử vô tình.
Thậm chí đến một câu khách sáo cũng không có, hành lễ xong liền dứt khoát cáo từ.
Trước khi rời đi, Triệu Lăng bỗng cảm thấy một cơn hàn ý quét tới sau lưng, theo bản năng quay đầu nhìn về hướng đó, liền thấy trên gác mái có hai bóng người.
Một là hoàng đế Yến Trang, người còn lại hắn chưa từng gặp qua, nhưng trong lòng đã đoán được tám phần.
Ánh mắt ba người giao nhau trong chớp mắt, người đầu tiên rời đi vẫn là Triệu Lăng.
“Vừa rồi người đứng trên gác là Tĩnh An vương sao?” Triệu Lăng hỏi Vương Lương bên cạnh.
Triệu Lăng sau khi hồi kinh liền được sắp xếp ở Nam Cung, nơi Thừa Ân Uyển. Dịp này là thọ thần của Thái hậu, người hồi kinh không ít, nhưng có thể được chính Hoàng thượng đích thân an bài cư trú trong cung, thì chỉ có một mình Triệu Lăng.
Yến Trang từng nói, những người khác y không để tâm, nhưng riêng mệnh của Triệu Lăng, trước khi rời khỏi U Châu, tuyệt đối không thể xảy ra chuyện ngoài ý muốn.
Kỳ thực Vương Lương sớm đã chú ý đến hai bóng người trên gác lầu cách đó không xa, liền thấp giọng nói: “Thuộc hạ có thấy. Khi thế tử bắn trúng hồng tâm, Hoàng thượng còn tự mình vỗ tay khen ngợi. Tĩnh An vương tựa hồ vẫn luôn dõi theo thế tử, chỉ là sắc mặt lạnh lẽo, nhìn như có vài phần bất mãn.”
Triệu Lăng với chuyện ấy lại dường như đã liệu trước, chỉ nhàn nhạt đáp: “Phụ thân từng nói qua, Tĩnh An vương tính tình thất thường, hỉ nộ bất định, lần này trở về kinh, tốt nhất là không nên dây dưa.”
Vương Lương gật đầu đồng tình.
Hai người trở về Thừa Ân Uyển, sau khi cho thị vệ lui xuống, trong phòng chỉ còn hai người, Vương Lương mới dám khuyên nhủ: “Thế tử, vết thương cũ còn chưa lành hẳn, hôm nay lại dùng sức quá độ, sau này vẫn nên cẩn trọng, chớ để vết thương tái phát.”
Triệu Lăng cũng biết nỗi lo ấy không sai, giữa sân tuy cố ý tỏ ra bình thường, cưỡi ngựa bắn tên đều tận lực thể hiện, nhưng lúc này vừa ngồi xuống nghỉ ngơi, vết thương nơi vai đã bắt đầu âm ỉ đau nhức.
Hắn xoay xoay vai, nhẫn nhịn cơn đau rồi nói: “Ngày mai theo ta ra khỏi cung dạo một vòng, Giáo Trường kia không cần đi nữa.”
Dứt lời, hắn ta như nhớ đến điều gì, liền hỏi: “Có tin tức gì của nàng chưa?”
Nàng trong miệng hắn, chính là Tống Tri Huệ.
Khi còn ở Liêu Đông, Ô Hằng bất ngờ tập kích vào ban đêm, doanh địa thương vong nặng nề. Quảng Dương hầu vì cứu thế tử mà suất binh tiếp viện, mới xoay chuyển được cục diện. Người ngoài chỉ biết thế tử Triệu Lăng được phụ thân cứu giúp, bị thương không đáng ngại, nào ai hay rằng đêm ấy hắn bị đâm trúng nhiều kiếm, suýt chút nữa mất mạng.
Trên phố đồn rằng, Quảng Dương hầu về sau bởi bất mãn với chuyện Triệu Lăng dây dưa không rõ với một kỹ nữ Xuân Bảo Các, mới nhốt hắn trong phủ, không cho bước ra ngoài. Kỳ thực là vì thương thế quá nặng, đành lấy cớ tĩnh dưỡng.
Ngay cả Vương Lương cũng không hay biết chân tướng. Sau này, khi y giúp mẫu thân Triệu Lăng đi tìm Tống Tri Huệ, nhờ vậy mới biết được vài phần.
“Thuộc hạ đã cho người truyền tranh vẽ đi khắp nơi, nghĩ rằng không bao lâu nữa sẽ có hồi âm từ vùng phụ cận Lạc Dương.” Vương Lương nói. Trong bức hoạ đó, không chỉ có Tống Tri Huệ, mà còn có hai người từng được Lưu ma ma nhắc đến — những kẻ đã chuộc thân cho nàng.
Một trong số đó thân hình vạm vỡ, khí chất nghiêm nghị, dù che kín mặt mũi, chỉ đứng lặng phía trước người khác cũng đã khiến người nhìn thấy trong lòng hoang mang, sống lưng lạnh toát. Loại cảm giác này, khác hẳn lúc Lưu ma ma gặp Triệu Lăng.
Lưu ma ma là người biết rõ thân phận Triệu Lăng, biết hắn đã làm những gì nên nảy sinh sợ hãi. Nhưng kẻ đeo mặt nạ kia, bà chẳng rõ chút gì, vậy mà lại khiến bà vô cớ phát run.
Bức họa được vẽ ra không ít bản. Cuối cùng, Lưu ma ma chỉ vào hai tấm gần giống nhất. Một tấm là hình người che mặt, chỉ có thể nhìn ra vóc dáng đại khái; tấm còn lại là một thiếu niên mười bảy mười tám tuổi, dung mạo tuấn tú, nhưng không có đặc điểm gì quá rõ ràng, tìm kiếm cũng chẳng khác nào mò kim đáy bể.
Lúc trước Triệu Lăng từng bóp cổ Lưu ma ma ép hỏi, nếu không phải còn cần bà ta cung cấp manh mối để tìm người, e rằng hắn đã sớm muốn một kiếm chém chết.
Hắn bất quá chỉ hai ba tháng chưa đưa bạc đến, vậy mà kẻ tiểu nhân này dám để Tống Tri Huệ tiếp khách, thậm chí còn dám đem nàng bán đi.
Mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, nghĩ đến Huệ Nương bị ép rời đi theo một kẻ không rõ lai lịch, sống chết chưa hay, lòng Triệu Lăng liền như trào lên mùi tanh của máu.
Khi đó hắn bị trọng thương, hôn mê bất tỉnh, căn bản không hay biết Quảng Dương hầu đã giết kẻ mỗi tháng vẫn đến giao tiền, khiến Xuân Bảo Các tưởng rằng hắn đã tuyệt tình, chặt đứt mọi liên hệ. Đến khi hắn tỉnh lại và biết chuyện, liền náo loạn với Quảng Dương hầu một trận, quyết cự tuyệt hôn sự đã định. Giờ đây phụng thánh mệnh đến Lạc Dương, hắn cũng chỉ đành tuân chỉ mà đi.
Lạc Dương người đông tin nhiều, biết đâu còn có thể lần ra thêm manh mối.
“Không biết nàng có hận ta hay không..."
Giọng Triệu Lăng trầm thấp, nơi giữa mày tuy vẫn lạnh lùng nhưng lại thoáng hiện vài phần dịu dàng hiếm thấy.
Trong lòng Vương Lương lo lắng không thua gì hắn. Ban đầu y còn tưởng Tống Tri Huệ đã trốn thoát khỏi Xuân Bảo Các, mãi đến khi Triệu Lăng hạ lệnh san phẳng kỹ viện kia, khiến mọi người đều rúng động, mới biết thì ra nàng không trốn, mà là bị người chuộc đi.
Hắc bạch hai đạo, Vương Lương không kể ngày đêm mà tra xét, vậy mà vẫn không thu được kết quả nào.
Biết rõ Triệu Lăng vẫn chưa từ bỏ, y dứt khoát vứt bỏ con đường làm quan, không còn lui tới bên cạnh Quảng Dương hầu, chuyên tâm vì thế tử mà làm việc.
Triệu Lăng vẫn chưa biết mối quan hệ giữa y và Tống Tri Huệ, chỉ cho rằng Vương Lương trung thành tận tụy, lại hữu dụng, nên mới để y ở lại bên người.
“Thuộc hạ nghĩ, nếu Tống nương tử biết thế tử khi xưa có nỗi khổ riêng, tất sẽ không trách ngài.” Vương Lương đè nén tâm tình, dịu giọng trấn an.
Triệu Lăng không muốn nói thêm, phất tay bảo lui. Khi trong phòng chỉ còn một mình, hắn nằm nghiêng lên giường chợp mắt, trong cơn mơ mơ màng màng, lại lần nữa hiện lên bóng dáng cao lớn trên lầu gác mái, khiến mình chợt tỉnh táo.
Nói đến Yến Dực, lúc hồi phủ thì trời đã chạng vạng. Người hầu theo cạnh hắn vừa đi vừa bẩm báo chuyện trong ngoài phủ hôm nay.
Bên trong phủ không có gì đáng nói, nhưng ngoài phủ lại náo nhiệt khác thường. Từ sau khi Yến Dực hồi kinh sáng nay, khách khứa ra vào Tĩnh An vương phủ đột nhiên tăng gấp mấy lần.
Tĩnh An vương phủ vốn xây ở nơi hẻo lánh phía Bắc thành Lạc Dương, quanh năm thanh tĩnh, nay chỉ riêng mấy sạp bán trứng gà ngoài cửa phủ cũng đã mọc lên năm sáu cái.
“Là những kẻ nào?” Yến Dực nghe vậy liền bật cười.
Ám vệ đã sớm điều tra kỹ càng thân phận đám người kia, người hầu liền lần lượt báo cáo, thế lực các nơi đều có mặt, Yến Trang thì miễn bàn, nhưng khiến Yến Dực bất ngờ là cả Quách gia cũng phái người tới. Xem ra cái gọi là an phận thủ thường, cẩn trọng dè dặt, cũng chỉ là ngoài mặt cho người xem mà thôi.
“Đã muốn thăm dò tin tức của cô, vậy cô đây liền rộng rãi một chút, cho bọn họ xem cho thỏa.” Yến Dực nói, chậm rãi dừng bước, “Sáng mai bắt đầu phát thiếp mời, phàm là hôm nay đã phái thám tử tới, không sót một ai, tất cả đều mời. Sau này cô mở yến tiệc, nhất định sẽ khoản đãi bọn họ cho thật chu đáo.”
Dứt lời, ánh mắt hắn trở nên thâm trầm, dừng lại nơi cửa sổ phòng ngủ đang khép chặt.
Sau cánh cửa kia có ánh đèn le lói, hắt ra bóng dáng mờ nhạt của một nữ tử trong phòng.
Một lúc lâu sau, hắn trầm giọng nói: “Cả thế tử phủ Quảng Dương hầu, cũng đưa thiếp mời.”
Người hầu sững sờ, nhỏ giọng nhắc nhở: “Vương gia, hôm nay phủ Quảng Dương hầu vẫn chưa phái người đến thăm.”
Yến Dực không đáp, chỉ hạ mắt nhìn gã lạnh lùng một cái. Người hầu kia tuy chẳng hiểu nguyên cớ, nhưng cũng lập tức im miệng, khom người lui xuống.
Yến Dực đứng lặng giữa sân, lẳng lặng nhìn bóng người trong phòng. Hồi lâu sau, hắn bất chợt sải bước tiến lên, bàn tay to nắm chặt hồi lâu, rốt cuộc cũng chậm rãi buông ra.
Chỉ nghe “Ầm” một tiếng, cánh cửa gỗ lim đỏ sậm bị mạnh mẽ đẩy bật ra.
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.