🔔 Tham gia cộng đồng đọc truyện online trên Telegram:  https://t.me/+_tC4EYqfkw83NTE1
Chương trước
Chương sau

 Cho đến khi Ngọc Hà đến được bến đò, bước lên thuyền rời đi mà vẫn không có ai đuổi theo, trái tim vốn treo lơ lửng tận cổ họng suốt dọc đường cuối cùng mới dần hạ xuống, rơi trở về lồng ng.ực trong một tiếng thở dài mệt mỏi.

Kỳ thực nàng cũng chẳng rõ mình nên đi về đâu. Chỉ biết rằng—dù là nơi nào đi nữa, chỉ cần rời khỏi kinh thành, rời khỏi người đó càng xa càng tốt, thì nơi ấy chính là bến đỗ.

Khi con thuyền rẽ sóng rời bến, Ngọc Hà ôm đầu gối, thu mình trong khoang thuyền lạnh lẽo. Trong tiếng gió nhẹ rít qua cửa, nàng nghe loáng thoáng âm thanh gào khóc đến xé ruột xé gan, từng tiếng từng tiếng đâm thẳng vào lòng, vang vọng bên tai như dội thẳng vào tim. Nhưng nàng vẫn cắn răng quay đầu đi, không ngoảnh lại.

An An một đường đuổi theo tới tận bến đò, trơ mắt nhìn mẫu thân bước lên thuyền, quay lưng rời đi, thật sự bỏ lại mình ở lại phía sau. Nước mắt cậu rơi xuống đất như hạt đậu rơi vỡ, từng giọt, từng giọt. Cậu khóc không còn hình tượng, gào thét như phát cuồng.
Cậu biết mình sai rồi, biết rõ mình hoàn toàn có thể che giấu, thế nhưng chính vì tin vào tình yêu thiên vị mà mẫu thân dành cho mình, cậu mới dám vô pháp vô thiên như vậy.

“Mẫu thân, người quay lại đi! Đừng bỏ rơi An An mà! An An biết sai rồi!”

“Người mang An An theo được không? An An hối hận rồi... người tha cho An An một lần, được không?”

Tại Thanh Vân Sơn, phu nhân họ Tạ đang tu hành, khi hay tin con dâu trưởng nhiễm trọng bệnh qua đời, bà chỉ lặng lẽ lần chuỗi Phật châu trong tay, niệm một tiếng:

“A Di Đà Phật.”

Thật ra, Tạ phu nhân xưa nay chưa từng ghét bỏ Ngọc Hà. Chỉ là trong thâm tâm bà vẫn luôn cảm thấy, nữ tử như vậy—dù có xuất sắc cỡ nào—cũng không thật sự phù hợp với trưởng tử của mình, Tạ Trường Quân.

Có lẽ là bởi thời điểm gặp gỡ giữa hai người không đúng, lại thêm bản tính cao ngạo nơi cốt tủy tương đồng như đúc, khiến cho mối duyên này giống như hai con nhím—chạm vào là đau, gần gũi là thương, càng yêu càng khiến nhau rỉ máu.

Đi rồi cũng tốt. Một khi đã rời đi, thì cả đời này… đừng quay về nữa.
Lúc đó, Tạ Uyển Nhi đang ôm Lâm ca nhi đùa giỡn, nghe tin tẩu tẩu vì bệnh nặng bất ngờ mà qua đời, trong đầu liền “ong” lên một tiếng, mọi suy nghĩ trở nên trống rỗng. Thân hình nàng ấy lảo đảo, suýt chút nữa ngã ngồi xuống chiếc nhuyễn tháp phía sau.

Chỉ mới không lâu trước đây, tẩu còn viết thư nói rằng mọi việc trong phủ đều ổn, bảo nàng ấy chớ lo. Thế mà nay, người đang sống sờ sờ bỗng chốc nói mất là mất ư?

Cảm giác ngột ngạt khiến nàng ấy khó thở, thần sắc thất thần, từng bước loạng choạng muốn chạy ra ngoài. Nhưng vừa đặt chân đến ngưỡng cửa điện, đột nhiên linh quang lóe lên trong đầu nàng ấy như kẻ chết đuối vớ được cọng rơm cuối cùng, vội vã níu lấy một cung nhân bên cạnh hỏi:

“Đại ca ta đâu rồi?”

Do vú già họ Lưu đang bệnh, người theo hầu lúc này là A Quả liền cúi đầu đáp:

“Nghe nói thừa tướng đại nhân không thể chấp nhận việc phu nhân qua đời, đã khóa mình trong thư phòng suốt mấy ngày liền, không ra khỏi cửa.”

“Bệ hạ cũng đã phái Thái y Lý tới thăm khám. Chỉ là…” A Quả thở dài một tiếng, vẻ mặt tràn đầy lo âu:

“Chỉ là theo lời Lý thái y, tình trạng của thừa tướng e rằng… không ổn. Mọi người muốn phá cửa vào, nhưng lại sợ uy nghiêm của người nên không ai dám manh động.”

Trước kia nàng ấy từng nghe nói, thừa tướng và phu nhân tình thâm ý nặng, cầm sắt hòa duyên, là đôi thần tiên quyến lữ hiếm có trong thế gian. Nhưng không ngờ ông trời lại nhẫn tâm đến thế, trêu ngươi một đôi yêu sâu đậm, càng đáng thương hơn là hai đứa nhỏ còn chưa đủ lớn đã mất đi mẫu thân.

Tạ Uyển Nhi mím chặt môi, đôi mày nhíu lại thật sâu, hồi lâu không thốt một lời. Cuối cùng nàng ấy khẽ phất tay, giọng khàn khàn:

“Lui xuống đi.”

Cung nhân e sợ quấy rầy nàng ấy liền bế cả Lâm ca nhi rời khỏi, Tạ Uyển Nhi mới chậm rãi ngồi trở lại nhuyễn tháp. Ánh mắt nàng ấy trầm tĩnh nhưng phức tạp. Nàng ấy nghĩ đến tình cảm của đại ca dành cho tẩu tẩu—gần như cố chấp đến mức bệ.nh h.oạn.

Với tính khí đó của đại ca… làm sao có thể cho phép tẩu tùy tiện bỏ lại mà chết?

Chỉ e rằng—tẩu tẩu không phải qua đời, mà là… đã rời đi.

Thật ra… rời đi như thế cũng tốt.

Tạ phủ vốn không nên là xiềng xích trói buộc nàng. Nàng sinh ra là để tung cánh giữa trời cao như đại bàng vẫy gió, chứ không phải làm chú oanh non bị nhốt trong lồng son, suốt đời chỉ biết hót theo ý người.

Chỉ là… đại ca nàng, liệu thật sự có thể cam lòng để tẩu tẩu rời khỏi hắn sao?

Câu hỏi ấy, chưa kịp nghĩ kỹ, lòng nàng ấy đã theo bản năng thốt lên hai chữ: không thể.


Rời khỏi kinh thành, Ngọc Hà theo thuyền xuôi nam, cuối cùng dừng chân ở Dương Châu. Ngay khoảnh khắc đặt chân lên bến, không hiểu sao nàng lại thấy như thể mình đã quên mất điều gì đó quan trọng. Bước chân khựng lại, nàng vô thức ngoái đầu nhìn về phía sau.

Phía sau nàng chỉ có một mặt hồ rộng mênh mông, sóng nước lăn tăn, vài ba người khách cùng rời khỏi khoang thuyền, và những phu khuân vác đang gồng mình bốc dỡ hàng hóa.

Ngọc Hà siết chặt gói hành lý trong tay, bật cười khẽ, tự giễu lắc đầu—chắc là nàng quên mấy chuyện lông gà vỏ tỏi nào đó chẳng đáng để nhớ thôi.

Nếu thật sự quan trọng… sao có thể quên được?

Mà đúng lúc nàng rời đi, cũng có một người từ con thuyền khác bước xuống, lặng lẽ dõi theo bóng lưng nàng khuất dần trong gió, nhẹ giọng thầm thì một câu:

“Bảo trọng.”


Đặt chân đến Dương Châu, Ngọc Hà dùng số bạc ít ỏi còn lại tìm một nha môi có tiếng, nhờ đó mua được một tiểu viện đơn sơ, chỉ một cửa trước một cửa sau, vừa đủ che nắng che mưa. Đang suy tính xem nên kiếm kế sinh nhai thế nào, thì vừa khéo gặp lúc triều đình bắt đầu khuyến khích nữ tử học y, buôn bán mưu sinh.

Dù trong ký ức có chỗ còn trống rỗng, nhưng một vài điều dường như đã khắc sâu tận xương cốt, linh hồn—khó mà xóa nhòa.

Không hề do dự, nàng chọn đến y quán lớn nhất trong thành để xin học việc. Dù triều đình đã không còn cấm nữ tử học nghề y, buôn bán như trước, song người đời vẫn chẳng thiếu kẻ chê cười phỉ báng. Nhiều kẻ cho rằng nữ nhi nên ở trong nhà chăm lo chồng con, phụng dưỡng cha mẹ chồng, còn việc lộ mặt nơi phố chợ, đụng chạm người lạ… thì chẳng khác nào tự hạ thấp thân phận, làm điều trái luân thường đạo lý.

Những tiếng phản đối ban đầu còn rất lớn, nhưng chẳng bao lâu đã bị triều đình mạnh tay trấn áp. Cuối cùng, cũng có một y quán đồng ý nhận nàng làm đồ đệ. Không đầy hai tháng sau, nàng đã trở thành nữ đại phu đầu tiên của Dương Châu, khiến cả thành chấn động một phen. Rất nhiều nữ tử mắc bệnh đã không quản đường xa, vượt ngàn dặm chỉ để được nàng bắt mạch kê đơn.

May thay, sau đó số lượng nữ tử học y càng lúc càng nhiều, nàng cũng không còn là một “hiện tượng lạ” nữa.

Năm thứ hai sống ở Dương Châu, triều đình bỗng chấn động bởi một sự kiện lớn đến mức toàn quốc đều xôn xao.


Gương mặt thiếu nữ ngày nào đã sớm rũ bỏ nét ngây ngô, giờ đây chỉ còn nụ cười không chạm tới đáy mắt. Tạ Uyển Nhi khẽ khuấy bát thuốc trước mặt, chậm rãi nói:

“Thật ra… thần thiếp vẫn luôn giấu bệ hạ một chuyện. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, dù sao cũng từng là phu thê một hồi, trước khi bệ hạ đi, thần thiếp cũng nên cho người biết.”

Trên giường, Yến Tuân đã yếu đến mức thở không ra hơi, nhưng vẫn nhất quyết không chịu uống chén thuốc nàng dâng. Hắn ta chỉ gắt gao nhìn nàng chằm chằm, ánh mắt như muốn đâm thủng tất cả.

Uyển Nhi chẳng chút hoảng loạn, thậm chí còn nở nụ cười như hoa vừa hé, duyên dáng mà độc địa:

“Bệ hạ chưa bao giờ thấy kỳ lạ sao? Tại sao đứa bé kia—thái tử hiện giờ—lại chẳng có lấy một nét nào giống người hay giống cả Lan phi đáng thương kia?”

“Ngươi… ngươi nói gì!”

Đôi mắt Yến Tuân đỏ ngầu, tròng mắt như muốn trồi ra khỏi hốc, linh cảm nguy hiểm ập đến khiến hắn ta muốn cắt ngang lời nàng ngay lập tức.

Nhưng nàng không để hắn có cơ hội đó.

Tạ Uyển Nhi thong dong buông ra câu nói như lưỡi dao sắc lạnh:
“Nói ra cũng không sợ bệ hạ cười chê… Chỉ là đứa con Lan phi vừa sinh ra đã bị thần thiếp bó.p ch.ết. Còn vị thái tử mà bệ hạ yêu thương, dốc lòng nuôi dạy kia, thực ra… trong người nó chảy là huyết mạch của nhà họ Tạ chúng ta.”

Như vẫn chưa thấy đủ tàn nhẫn, nàng lại từ tốn, hờ hững buông thêm một nhát:

“Bệ hạ đoán thử xem—đứa trẻ đó, rốt cuộc là của ai?”

Dù nàng không nói ra cái tên kia, nhưng đáp án… đã sáng rõ như ban ngày.

Nghe tin động trời ấy, Yến Tuân vì phẫn nộ quá độ mà huyết khí công tâm, há miệng phun ra một ngụm máu tươi, thở d.ốc từng hơi nặng nề, tay run rẩy chỉ thẳng vào mặt nàng, hoàn toàn mất đi khí chất đế vương, giận dữ gào lên:

“Độc phụ!”

“Người đâu, mau đem ả độc phụ này cùng đứa nghiệt chủng kia ra chém đầu cho trẫm!”

Nhưng mặc hắn ta gào thét gọi người, cả tẩm điện chỉ vọng lại tiếng rống tức giận vang vọng của hắn, thê lương mà bất lực, lại càng khiến hình bóng vị quân vương ấy trở nên… đáng thương đến nực cười.

Tạ Uyển Nhi nhẹ nhàng vươn tay, che lấy đôi mắt đỏ ngầu căm hận của đối phương, hơi thở phả ra như lan, mềm mại mà lạnh lẽo:
“Bệ hạ, đi đường bình an.”

“Người cứ yên tâm, giang sơn của người… nhà họ Tạ bọn thiếp sẽ chăm sóc chu toàn.”

“Thiếp có thể cam đoan với người, thiên hạ giao vào tay họ Tạ chúng ta, sẽ mạnh binh cường tướng hơn nhiều so với lúc người còn nắm quyền. Chúng ta… sẽ xây dựng một thái bình thịnh thế thực sự.”

Chỉ đến khi đôi mắt trợn trừng của Yến Tuân hoàn toàn mất đi ánh sáng, mang theo bất cam và thù hận mà trút hơi thở cuối cùng, Tạ Uyển Nhi mới khẽ nở một nụ cười — nụ cười đầu tiên xuất phát từ đáy lòng kể từ ngày nàng bước chân vào hoàng cung.

Làm hoàng hậu thì sao thể sánh được với quyền uy trong tay thái hậu? Nhất là khi nàng ấy còn có rất nhiều việc phải làm, thì quyền lực… chính là chiếc chìa khóa duy nhất.

Thay vì cúi đầu, run rẩy mong người khác bố thí chút cơm thừa canh cặn, nàng ấy thà giật cả mâm thịt về mà ăn cho thỏa thuê — dù có là dã thú canh giữ bên cạnh, nàng ấy cũng chẳng e sợ, vì chúng vốn dĩ là chó hoang của riêng nàng, không bao giờ cắn chủ.


Chẳng bao lâu sau, nội thị hốt hoảng chạy vào, rồi lại hoảng loạn lao ra ngoài hét lên:

“Bệ hạ… bệ hạ băng hà rồi!!”

Năm Quang Hy thứ bảy, cuộc tranh đấu tưởng như không đội trời chung giữa phe Tạ thị và hoàng quyền cuối cùng cũng khép lại sau cái chết của Yến Đế. Tân đế lên ngôi, cải niên hiệu thành Quang Tự nguyên niên. Mẫu phi của tân đế lên làm Thái hậu, buông rèm nhiếp chính. Còn Tạ thừa tướng — giờ đây trở thành nhiếp chính vương, nắm quyền giám quốc.

Việc Yến Đế băng hà, tân đế đăng cơ — một biến cố chấn động triều đình như vậy, chẳng mấy chốc cũng truyền đến Dương Châu, nơi “núi non xanh thẳm, sông nước mênh mang, hai mươi bốn cây cầu soi trăng đêm rằm”.

“Ngươi nghe gì chưa? Sau khi hoàng đế băng hà, người kế vị lại là vị thái tử chưa đầy ba tuổi! Thái hậu thì buông rèm nhiếp chính, còn thừa tướng lại nắm giữ đại quyền. Thế thì thiên hạ này chẳng phải đã đổi họ sang Tạ rồi hay sao?”

“Suỵt! Ngươi dám nói mấy lời đó à? Bị quan phủ nghe thấy là mất đầu như chơi đó!”

“Ôi trời, tỷ tỷ tốt của ta ơi, ta chỉ dám nói với tỷ thôi, chứ gặp người khác thì ta nào dám!”

Đang yên lặng gói thuốc ở một góc, Ngọc Hà nghe đến những lời bàn tán về vị Tạ thừa tướng kia — quyền thế ngút trời, dung mạo kiều diễm, dáng vẻ ung dung đoan chính — trong lòng nàng lại đột nhiên dâng lên một cơn ghê tởm khó hiểu.

Lạ thật. Nàng rõ ràng chưa từng đặt chân đến kinh thành, cũng chưa từng gặp người kia, vậy vì sao mỗi lần nghe đến cái tên Tạ… nàng lại như có gai trong lòng, một sự chán ghét từ tận xương tủy không cách nào lý giải?

Kỳ thực, từ khi đến Dương Châu, nàng đã cảm thấy mình như quên mất rất nhiều chuyện. Nhưng nghĩ lại thì cũng chỉ là những chuyện không quan trọng, nếu thực sự là điều quan trọng, thì sao có thể dễ dàng quên đi như vậy?


Tiễn bệnh nhân cuối cùng trong ngày rời khỏi y quán, Ngọc Hà cũng thu dọn xong rồi cáo biệt mọi người, thong thả rời đi.

Trên đường về, nàng tình cờ thấy có người đang bán mẫu đơn ven đường, lúc ấy mới chợt nhận ra: đã sang tháng Tư rồi.

Thiếu niên bán hoa đang hô lớn mời chào, thấy nàng đứng khựng lại trước quầy, liền nở nụ cười tươi rói:

“Phu nhân, năm nay mẫu đơn nở đẹp lắm, mua một chậu mang về đặt trong nhà, vừa đẹp mắt vừa thêm phần rực rỡ!”

Ngọc Hà nhìn những đóa mẫu đơn kiêu sa rực rỡ, sắc tím rực rỡ, sắc đỏ thắm thiết, sắc hồng phớt nhẹ — mỗi đóa mỗi vẻ, đều diễm lệ như gấm thêu. Nàng nghĩ bụng, mua một chậu về nhà cũng chẳng tệ.

Dù mẫu đơn có rất nhiều giống, nhưng nàng vẫn thiên về sắc đỏ tươi rực rỡ của loại Hồ Hồng — chỉ có màu này mới xứng danh là quốc sắc thiên hương.

Nhưng nàng vừa mới mua xong chậu mẫu đơn, bầu trời lập tức đổ xuống cơn mưa như những sợi tơ rơi nặng trĩu. Lúc ra ngoài nàng có mang theo dù, nhưng trời mưa quá to, dù có che cũng chẳng ích gì, đành phải vội vã chạy vào trú dưới mái hiên gần đó.

Ngọc Hà gập dù lại, đặt chậu mẫu đơn đang ôm trong lòng sang một bên, rồi lấy khăn tay ra lau đi phần áo vừa bị mưa tạt ướt, lúc này mới phát hiện bên dưới mái hiên còn có một người đàn ông cũng đang trú mưa.

Nàng ngẩng đầu lên, ánh mắt đầu tiên rơi vào đôi tay đang ôm chặt lấy một chồng tranh cuộn của hắn.

Bàn tay của người đàn ông ấy sinh ra vô cùng đẹp — ngón tay dài, trắng, khớp xương rõ ràng mà không hề có vẻ yếu đuối nữ tính.

Làn da trắng ngần ấy, mỗi khi hắn siết tay lại, dưới lớp da mỏng lộ ra những đường gân xanh nhạt, như ngọc thạch nhuộm ánh trăng.

Đến nỗi, trong khoảnh khắc đó, Ngọc Hà không phân rõ được: là ánh trăng lạnh kia trắng hơn, hay chính là đôi tay ấy trắng hơn?
Ý thức được bản thân lại đang ngẩn người nhìn tay một nam nhân xa lạ, nàng chột dạ đến đỏ mặt, bối rối cúi đầu thu ánh mắt lại, đồng thời len lén di chuyển vài bước, kéo giãn khoảng cách giữa mình và hắn.


Cơn mưa bất chợt khiến người ta trở tay không kịp ấy rất nhanh đã dịu xuống, chân trời cũng nhuộm một tầng xám mờ, theo đó, không khí cũng dần lạnh hơn, những làn hơi ẩm ướt trườn dọc theo mặt đất len lỏi lên tận lòng người.

Ngọc Hà nghĩ mưa đã nhỏ lại, mình cũng nên tranh thủ về sớm để thu đám dược liệu đang phơi dưới mái hiên về nhà. Nếu bị mưa làm ướt, e rằng dược tính của chúng sẽ giảm đi một nửa.

Nàng ôm lấy chậu mẫu đơn, đang chuẩn bị với tay lấy cây dù lụa xanh bên cạnh, thì trong khoé mắt lại thấp thoáng bóng dáng người đàn ông ấy — kẻ vẫn đang yên lặng trú mưa dưới cùng mái hiên.

Còn chính xác hơn, là những bức tranh cuộn mà hắn đang ôm trong tay.

Ai cũng biết, tranh cuộn vốn rất dễ hư hỏng, nếu sách bị ẩm mốc hay hỏng giấy thì chỉ cần phơi khô, vẫn có thể tiếp tục sử dụng. Nhưng tranh thì không thể, một khi mực bị nhòe ra, dù chỉ là một góc nhỏ cũng sẽ khiến cả bức tranh trở thành phế phẩm.

Ngọc Hà vô tình liếc qua bộ y phục của hắn, là một chiếc trường bào đơn giản làm từ vải bông vải lanh trắng, viền áo đã vì bị giặt nhiều lần mà lộ ra những sợi chỉ thừa. Xem ra gia cảnh của hắn không mấy khá giả, mặc dù mưa đã tạnh nhiều, nhưng hắn vẫn chưa vội rời đi, có lẽ là sợ những bức tranh trong tay sẽ bị mưa làm ướt, hỏng mất.

Ngọc Hà nghĩ nhà mình không xa, cũng không cần phải dùng đến ô nữa.

Nàng do dự một chút, một tay vén váy lên, một tay ôm chậu mẫu đơn rồi chạy nhanh ra khỏi mái hiên, bước vào màn mưa nhẹ.
Chẳng mấy chốc, bóng dáng nhỏ bé của nàng đã biến mất trong làn mưa mù mịt.

Sau khi nàng đi rồi, chiếc ô xanh lụa mà nàng bỏ lại đã được đôi tay thon dài của người đàn ông cầm lấy, sau đó mở ra, đuổi theo phía trước.

"Tiểu thư, ô của ngươi rơi rồi."

(Hoàn chính văn) 

 
Chương trước
Chương sau
Trang web đọc truyện online hàng đầu Việt Nam, cung cấp kho truyện phong phú với các thể loại như tiên hiệp, kiếm hiệp, ngôn tình, truyện teen và truyện đô thị. Tất cả các tác phẩm đều được chọn lọc kỹ lưỡng bởi các tác giả và dịch giả uy tín, mang đến trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời nhất cho bạn!
Liên hệ về bản quyền/quảng cáo: [email protected]

Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư

Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.