Chương 91: Gió thổi góc núi, tối rồi lại sáng.
*
Lần đầu tiên Ôn Tễ mới biết, Trương Sơ Việt khóc là không có tiếng.
Chỉ cần chớp nhẹ hàng mi, nước mắt đã rơi. Đồng tử anh vốn đã đen láy, mí mắt dài và gập sâu, khi nhìn người luôn ẩn giấu vẻ lạnh nhạt thâm trầm. Lúc này, tựa như giếng đen bỗng dâng nước, chẳng rõ nông sâu bao nhiêu.
Không giống cô, nước mắt còn chưa rơi đã bật khóc thành tiếng.
Anh đưa bức ảnh cho cô, ánh mắt cụp xuống khẽ ngước lên, nhìn thẳng vào mắt cô và nói với cô rằng: “Chúc em, sóng đè cành trúc cúi rồi lại vươn, gió thổi góc núi, tối rồi lại sáng.”
Ôn Tễ không nghe lọt tai, vừa lên máy bay đã bắt đầu khóc.
Tiếp viên hàng không tốt bụng đến hỏi, cô chỉ lắc đầu, nhận lấy một túi khăn giấy lớn từ người ta.
Bức ảnh chụp không tệ, người đàn ông vòng tay qua vai trái cô kéo vào lòng, gần như khiến cô hơi nghiêng người mỉm cười với ống kính, nhưng mắt lại đỏ hoe. Trong tông màu điều chỉnh của máy ảnh chụp lấy liền, độ tương phản trở nên đặc biệt đậm, tạo hiệu ứng như bản khắc nổi.
Còn Trương Sơ Việt cũng cười, chỉ là hơi cúi đầu nhìn cô.
Anh mặc áo sơ mi và quần tây, một người đàn ông cao lớn, thẳng thớm, tấm hình mang phong cách cổ điển ấy nếu nói là chụp từ những năm tám mươi, chín mươi thì cũng có người tin.
Ôn Tễ nhìn mà lại muốn khóc. Anh đâu đã già đến thế.
Sau mấy chục tiếng hành trình dài đằng đẵng, vừa đặt chân đến là một thành phố xa lạ. Cô nhắn tin cho Trương Sơ Việt báo đã đến nơi, đồng thời liên hệ với người anh sắp xếp để đón tiếp.
Là một chị người phương Tây dáng người mập mạp, nhiệt tình, còn chuẩn bị cho cô một móc khóa. Ôn Tễ lắc lắc hỏi đó là gì, chị ấy nói là bùa hộ thân phát sáng ở địa phương, anh Trương bảo đưa cho cô, đi đêm không sợ bị người ta đâm vào.
Ôn Tễ nhìn cái móc khóa ấy, trên đó có một chữ cái tiếng Anh: Y.
Cô chụp ảnh gửi cho anh, nghi ngờ rằng anh cố ý chọn chữ Y vì là chữ cái đầu trong tên “Việt”.
Cô dùng tính năng chuyển giọng nói thành văn bản, nhắn tin cho Trương Sơ Việt.
Ký tự nhận dạng hiện ra là: [Vợ anh đã nhận được rồi.]
Sau khi gửi đi, cô sững lại, mắt cay xè, nước mắt sắp cạn khô.
Không thể tiếp tục nói chuyện với anh nữa, nếu không nước mắt cô đổ ra còn nhiều hơn cả sông Mississippi.
Ở trong nước sớm hơn nơi này mười ba tiếng, tức là bên Trương Sơ Việt đã là nửa đêm, vậy mà anh vẫn lập tức trả lời tin nhắn của cô, nói: [Chú ý an toàn.]
Sống trong môi trường hoàn toàn xa lạ lại là nơi đất khách cần có dũng khí. Sau khi Ôn Tễ đến căn hộ, chủ nhà là một cặp vợ chồng trung niên người da trắng, nhiệt tình dẫn cô xem phòng ngủ ở tầng hai – đó là một căn phòng hướng nam tràn ngập ánh sáng, mở cửa sổ ra là bãi cỏ xanh ngắt.
Cô thu dọn hành lý xong, chụp ảnh chỗ ở gửi cho Trương Sơ Việt, chia sẻ định vị, báo cáo với anh: [Em đi tắm rồi ngủ, để làm quen múi giờ.]
Cô cần phải thích nghi không chỉ với múi giờ, mà còn với cả Trương Sơ Việt.
Trong lòng cứ canh cánh nhớ đến một người, sao có thể ăn ngon ngủ yên được. Cô vừa đến đã cảm lạnh, phát sốt, đủ thứ virus như bị nhốt trong người, tựa như một dạng cai nghiện cảm xúc trên phương diện thể xác.
Ngày ngày đều mong anh gửi tin, tay lướt mở điện thoại lại tắt đi, màn hình trắng toát, chẳng có gì cả. Về sau cô sốt đến mức đầu óc sắp hỏng, giận dỗi nhắn anh:[Em phải học hành nghiêm túc rồi, mạng xã hội phải gỡ hết, sau này em viết thư cho anh nhé.]
Như vậy cũng tốt, giống như hồi anh đi làm nhiệm vụ, biết không thể liên lạc được thì sẽ không còn tỉnh giấc giữa đêm để xem điện thoại nữa.
Hơn nữa, cũng đến lượt cô đi làm nhiệm vụ rồi — để anh không tìm được cô nữa.
Để anh nếm thử mùi vị này xem sao!
Ôn Tễ sốt đến mơ hồ, lại không dám làm phiền vợ chồng chủ nhà, càng sợ lây bệnh cho người khác. Nhưng sau khi nói rõ tình trạng với Trương Sơ Việt, cơn cảm cúm khiến cô lo lắng bấy lâu lại dịu xuống sau khi uống một ly nước hoa kim ngân.
Thì ra đúng là do nóng trong người.
Bản chất của yêu đương, chính là trên thế gian này có thêm một người vì anh mà lo lắng không yên, đến mức rối loạn cả sức khỏe.
Sau khi khỏi bệnh, Ôn Tễ cũng kết nối được với cộng đồng du học sinh tại đây, mọi thủ tục đều được tiến hành theo đúng trình tự. Nhờ việc lớn lên ở quê, cô rất khéo tay, thậm chí còn có thể giúp một số cô gái yểu điệu lắp đặt đồ nội thất.
Cũng nhờ tài lẻ ấy mà cô kiếm được không ít bữa ăn miễn phí.
Tất nhiên cũng có người nói ai lấy được cô chắc chắn sẽ hạnh phúc, lúc ấy những chàng trai độc thân trong nhóm lập tức ồn ào lên. Sau đó, có một nam sinh hẹn riêng cô đi ăn, lái siêu xe, ra vào nhà hàng Tây.
Đến nơi cô mới biết chỉ có hai người, đối phương gọi rất nhiều món, Ôn Tễ nói: “Lãng phí quá.”
“Khai vị, món chính, món nóng, tráng miệng, súp, rượu, cộng lại đủ tám món là tối thiểu.”
Ôn Tễ nhìn bộ dạng ăn mặc bảnh bao của đối phương, khẽ cong môi, đeo chiếc nhẫn cưới vào, rồi cầm lấy ly rượu cao chân.
Quả nhiên, ánh mắt chàng trai dừng lại ở ngón áp út của cô.
Ôn Tễ nói: “Chồng tôi là người không thích lãng phí.”
“Vậy mà lại mua cho cô chiếc nhẫn rẻ tiền thế này sao?”
Anh ta cười, mái tóc vuốt đầy gel bóng loáng như đang giễu cợt cô vậy.
Ôn Tễ chống cằm bằng lòng bàn tay: “Anh ấy tay trắng thì tôi vẫn lấy.”
Chàng trai ra vẻ phong độ rót rượu cho cô: “Biết bao người ra nước ngoài rồi chẳng muốn quay về nữa, sao phải câu nệ quá khứ? Giờ cô có nhiều lựa chọn hơn rồi, chỉ khi thật sự tự do mới biết mình muốn gì.”
Ôn Tễ thấy câu này cũng khá có lý. Trước kia cô kết hôn với Trương Sơ Việt vì tương lai của cả hai, bây giờ ly hôn cũng là vì thế. Giờ cô có tự do, vậy còn anh, liệu có thêm nhiều lựa chọn không?
Thế là sau bữa ăn, cô chuyển khoản trả tiền và bảo anh ta đưa mình đến một tiệm trang sức.
Đối phương nhướng mày cười: “Cô nên tháo chiếc nhẫn ở ngón áp út ra đi, để tôi tặng cô một cái mới.”
Ôn Tễ đưa tay khẽ chạm lên chiếc nhẫn trên ngón áp út: “Hồi trước anh ấy muốn tôi đeo, tôi ngại nên không chịu. Giờ xa nhau rồi, lại cứ đeo mãi chẳng rời. Nhưng anh nói cũng đúng, kiểu dáng này đúng là lỗi thời thật. Hay là anh vào chọn giúp tôi một chiếc nhẫn nam đi, tôi tặng cho chồng tôi.”
Người đàn ông rõ ràng có ý muốn tán tỉnh cô, vậy mà bị cô dắt mũi cả buổi tối. Cuối cùng khi Ôn Tễ xuống xe, sắc mặt hắn sầm lại, lạnh lùng buông một câu: “Không biết điều.”
Đám con nhà giàu trong giới đó vốn quen được người ta tâng bốc, kiểu con gái giản dị không phô trương như Ôn Tễ, thỉnh thoảng có thể là món khai vị mới mẻ. Nhưng cô lại đeo nhẫn cưới, còn nói mình đến từ nông thôn, dựa vào tiền chồng mới có thể đi du học.
Thế là hứng thú với cô nhanh chóng nguội lạnh.
Cho đến khi sang học kỳ hai, cô giành được học bổng toàn phần và vào làm trong phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo chip máy tính hàng đầu — từ đó trong giới đó càng không ai hẹn gặp được cô nữa.
Ôn Tễ rất bận, ngày đêm chạy việc, chỉ đến Chủ nhật mới có thể tranh thủ đi bệnh viện.
Lúc cầm kết quả khám ra, cánh cửa màu trắng nhợt vừa mở ra, có người bước vào từ đối diện. Cô đang giơ tay lên áp vào tai trái nên không để ý, khẽ va phải cánh tay người kia.
“Sorry!”
Ôn Tễ buột miệng nói, ngẩng đầu lên. Bất chợt, cô bắt gặp một ánh mắt ngỡ ngàng đang chậm rãi nhìn mình.
“Hi Nhi?”
Ôn Tễ không ngờ lại gặp bạn gái cũ của Hứa Hoàn Vũ ở đây.
Cô ấy cũng nhận ra cô, nhưng câu đầu tiên lại là: “Cậu bị bệnh à?”
Cô nhìn lướt qua tờ phiếu khám, lại nhìn chiếc áo blouse trắng trên người Hỉ Nhi.
“Mấy hôm nay tai trái cứ như bị phủ một lớp sương, nói chuyện có tiếng vọng rồi bị ù tai.”
Hai người đi đến bậc cầu thang ở cửa sau, chỗ đó có thể hút thuốc.
Ôn Tễ vừa nói vừa đưa tay ra xin một điếu.
Hỉ Nhi hơi sửng sốt, rồi lập tức giơ tay đưa: “Trương Sơ Việt mà biết thì sẽ xót đấy.”
Ôn Tễ cao ngang cô ấy, vừa giơ tay đã đón lấy điếu thuốc, nói: “Không có gì nghiêm trọng, bác sĩ bảo là do viêm họng sưng chảy máu, chèn ép vào khoang tai trái.”
“Cạch!”
Tàn thuốc lách tách bén lửa, làn khói lập tức lan ra, Hỉ Nhi ngồi xuống bậc thềm: “Cậu bị thế là do thức đêm đấy. Trước mười một giờ đi ngủ, đảm bảo chẳng bệnh tật gì hết.”
Cầu thang hẹp, Ôn Tễ ngồi cạnh cô ấy, hai người ngang hàng, bậc thang bằng sắt rỗng ruột từng tầng, bên dưới là thảm cỏ xanh.
Lý Hỉ Nhi Nhi đưa cho cô một chai nước khoáng, Ôn Tễ nhận ra thương hiệu ấy — mỗi chai mấy trăm tệ, cô cầm để gạt tàn thuốc.
“Cậu học y, thừa biết hút thuốc có hại sức khỏe, cậu làm được không?”
Lý Hỉ Nhi phả ra một vòng khói, làn sương mỏng phủ lên gương mặt sắc sảo của cô ấy, trang điểm kỹ lưỡng khiến vẻ đẹp lại càng rực rỡ, lúc này hơi nheo mắt, nghiêng đầu nhìn cô, nói: “Nhưng tai mình đâu có vấn đề gì.”
Ôn Tễ bị sặc khói, Hỉ Nhi bật cười: “Cái vòng tròn này cũng thật nhỏ.”
“Cũng không nhỏ đâu, mình đến gần một năm mới gặp cậu đấy. Hồi mới sang mình có đi vài buổi tụ họp, sao không thấy cậu?”
Nơi đất khách quê người, thêm một người bạn là thêm một con đường. Nhờ có mối quan hệ, Ôn Tễ mới đứng vững được phần nào, còn Hỉ Nhi đến sớm hơn cô, lẽ ra phải quen biết rộng hơn.
Hỉ Nhi ngậm điếu thuốc mảnh dài, rít được nửa điếu, nói: “Trước kia thì tụ tập bạn bè nhiều lắm, sau này nhà có chuyện, mình không tham gia nữa.”
Ôn Tễ hơi sững người.
Cô ấy nói: “Ha, cũng chẳng phải chuyện to tát gì, chỉ là mình thấy mất mặt.”
Ôn Tễ không hỏi thêm, chỉ nói nhỏ: “Hứa Hoàn Vũ uống say rồi ngủ ngay trước cửa nhà mình, anh ấy còn mất mặt hơn.”
Nghe đến đó, Hỉ Nhi phá lên cười. Cười xong, cô ấy lại vui vẻ nói tiếp: “Cậu có biết tại sao mình tên là Hỉ Nhi không?”
“Đứa trẻ mang lại niềm vui.”
Lần này đến lượt Hỉ Nhi bị sặc thuốc, nước mắt rưng rưng, mắt sáng lấp lánh: “Bởi vì bố mình muốn có con trai, nên mới đặt tên mình là Hỉ Nhi.”
Ôn Tễ khựng lại, không nói nên lời. Hỉ Nhi nói tiếp: “Mẹ kế vào nhà, liền sinh cho ông ấy một đứa em trai, chỉ kém mình nửa tuổi. Nói rằng chính cái tên này của mình mang lại may mắn nên mới có được thằng em ấy. Về sau nhà làm ăn thua lỗ, lại nhớ đến đứa con gái này, định gả mình đi để đổi lấy liên minh làm ăn. Mình đâu có ngu đến thế, nên mới ra nước ngoài.”
Ôn Tễ cụp mắt rít thuốc, nhìn chằm chằm đốm lửa dần áp sát, sắp bén tới môi rồi, bỏng rát, hàng mi cũng sắp long lanh nước.
“Cậu thích Hứa Hoàn Vũ.”
Ôn Tễ quay sang nhìn Hỉ Nhi, cô ấy khẽ gật đầu, ánh mắt đăm đăm nhìn về phía xa: “Nhưng mà… thật sự chẳng còn cách nào, không còn cách nào cả.”
Ôn Tễ biết Hứa Hoàn Vũ không thể giúp được Hỉ Nhi, cho nên, thích thì cũng chỉ có thể là thích thôi.
Rất nhiều lúc, dừng lại ở khoảnh khắc đó đã là tốt rồi, không nhất thiết phải có được.
Một điếu thuốc hút đến tận cùng, Hỉ Nhi vỗ vỗ tay đứng dậy: “Thôi được rồi, cậu cũng đừng cố quá, không là cái tai bên kia cũng có vấn đề đấy.”
Ôn Tễ chạm nhẹ vào tai trái, nói: “Mình ly hôn rồi mới ra nước ngoài.”
Đồng tử Hỉ Nhi giãn ra.
Ôn Tễ vặn nắp chai nước lại, mỉm cười với cô ấy: “Nên bắt buộc phải làm nên trò trống gì đó.”
Bằng không, chẳng thể bù đắp được cho sự hy sinh lớn như vậy.
Nhưng muốn giành lấy cơ hội trên đất người, nói dễ hơn làm — cần có gan, cần phải cãi được bằng tiếng Anh, và còn phải có cả vận may.
Chưa kể, còn cần thời gian.
Khi nhận được thông báo tuyển thẳng lên tiến sĩ, Ôn Tễ dùng học bổng của mình mua một chiếc đồng hồ cho Trương Sơ Việt, gửi về nước cùng với thư tay.
Anh nhìn thấy giấy báo trúng tuyển thì tự nhiên sẽ hiểu rõ . Ôn Tễ không dám gọi điện nói rằng cô sẽ tiếp tục học lên nữa.
Sợ anh giận, lại sợ anh không giận.
Muốn hái được trái ngọt của số phận, luôn phải đi kèm với hy sinh rất lớn thì mới có thể đổi lấy một chút khả năng mong manh.
Hỉ Nhi vì chạy trốn hôn nhân mà né tránh các hoạt động trong giới du học sinh, Ôn Tễ thì bận rộn đến mức chẳng buồn xã giao, thế là hai người trở thành bạn thân gặp nhau thường xuyên nhất trong đời sống riêng tư.
Thân đến mức chỉ cần gặp là ngồi xuống ăn cơm, một người đọc sách, một người lướt điện thoại. Ôn Tễ không ăn sang, không để thừa đồ, Hỉ Nhi theo cô lâu ngày, chi tiêu hàng ngày cũng tiết kiệm được kha khá — nhưng lại tiêu vào những chỗ khác.
“Bữa tiệc này toàn các nhân vật lớn trong ngành, không trang hoàng cho bản thân một chút thì không ổn đâu.”
Hỉ Nhi vẫn còn chút mối quan hệ trong tay, gửi cho Ôn Tễ một thiệp mời nội bộ. Cô xem qua rồi bất chợt nhớ ra chuyện gì: “Cậu định khi nào về nước?”
Hỉ Nhi lảng sang chuyện khác: “Bữa tiệc này cậu rốt cuộc có đi không?”
Ôn Tễ gật đầu: “Cậu nghĩ kỹ rồi hãy nói với mình.”
Hai người quen lâu cũng nảy sinh chút tình bạn cách mạng, nhất là khi sống ở nước ngoài, chia sẻ cùng nền văn hóa, cùng niềm tự hào dân tộc, cùng đồng lòng đối mặt với khó khăn. Có lần bị Hỉ Nhi xúi giục, cô theo chân cô ấy sang châu Âu một chuyến, đứng trước những tòa lâu đài cổ và di tích, không khỏi cảm thán về mức sống của người dân các nước phát triển.
Ai ngờ Hỉ Nhi lại cười lạnh ba tiếng: “Không phải cũng là nhờ máu tanh chiến tranh mà tích góp nên sao? Tuyến đường sắt này còn là tiền tổ tiên chúng ta quyên góp nữa đấy.”
Ôn Tễ chống nạnh nói: “Đúng thế, lẽ ra phải mở cửa miễn phí cho người Trung Quốc chúng ta. Còn cái này, cái kia nữa, tất cả đều nên khắc tên chúng ta vào!”
Hỉ Nhi bụm miệng cười: “Cho họ biết nơi này đều là chúng ta xây nên!”
Ôn Tễ ngồi vắt chân bên bệ đá cẩm thạch, có mấy con bồ câu trắng bay ngang qua. Cô quay sang hỏi Hỉ Nhi: “Thế giờ cậu còn muốn quay về không?”
Hỉ Nhi quay đầu nhìn cô: “Cậu cứ hay hỏi mấy câu kiểu này, có phải chính cậu đang do dự, muốn tìm câu trả lời từ mình không?”
Cô ngửa đầu nhìn lên trời: “Ban đầu mình chỉ định học một năm, ai ngờ lại ở lại, giờ chẳng dám lên kế hoạch gì nữa, người tính sao bằng trời tính.”
“Giờ cậu đã tự do, có thể có nhiều lựa chọn hơn, chưa chắc phải quay về.”
Câu nói này nghe rất quen, Ôn Tễ cắn nhẹ chiếc thìa gỗ của cây kem trong tay, chợt nhớ tới chàng trai từng ra hiệu muốn làm quen hồi cô mới đến Hoa Kỳ, anh ta cũng nói: “Giờ cô tự do rồi, có thể có nhiều lựa chọn hơn.”
“Cuộc hôn nhân của mình với Trương Sơ Việt không lãng mạn như cậu và Hứa Hoàn Vũ, là do cha mẹ sắp xếp. Anh ấy cần lấy vợ, còn mình muốn trả ơn nghĩa.”
Hỉ Nhi chống tay ra sau, hít một hơi sâu rồi nheo mắt nói: “Vậy thì sau ba năm nhìn thấy thế giới, giờ cậu đã ly hôn, chắc hẳn đã xác định được điều mình thật sự muốn rồi.”
Cuộc hôn nhân trước kia của Ôn Tễ là vội vã, người chồng cũng không phải do cô chọn. Ai dám nói chắc rằng anh ấy là người duy nhất, là định mệnh cả đời?
Cô vẫn nhớ lần đầu rung động, lại nghĩ rằng, có lẽ anh đối xử với vợ nào cũng thế thôi, lấy ai cũng vậy cả.
Là phụ nữ thời đại mới, kiểu hôn nhân vì làm vừa lòng cha mẹ như thế lẽ ra cô phải phản đối nhất.
Nhưng giờ đã ly hôn rồi — vậy thì lựa chọn này chính là từ tận đáy lòng cô, không cần bất kỳ lời giải thích hay ngôn từ nào để chứng minh.
Cô nói: “Vừa tốt nghiệp là mình về nước.”
–
Tháng Sáu mùa hè, quả trên cây chín rộ.
Mùa ở quốc gia này không khác gì trong nước, thời điểm hái quả cũng giống như với Ôn Tễ vậy.
Cô đã nhận được học vị tiến sĩ, viện sĩ chủ trì lễ tốt nghiệp cho cô, đưa tay chỉnh lại tua mũ, nói với cô: “Congratulations.”
Cô mỉm cười đáp lại: “Welcome to China.”
Hỉ Nhi cầm chiếc máy ảnh cao cấp từng dùng để chụp ảnh cho Hứa Hoàn Vũ chĩa về phía Ôn Tễ, cô không nhịn được bật cười: “Không ngờ có một ngày mình cũng được hưởng đãi ngộ như bạn trai cậu ngày trước.”
Thật ra bao năm nay, Hỉ Nhi không thiếu người theo đuổi, nhưng vẫn luôn độc thân. Ban đầu Ôn Tễ tưởng rằng cô ấy vẫn còn nghĩ đến Hứa Hoàn Vũ, nhưng từ khi Hỉ Nhi đã thấu hiểu rằng tình yêu không nhất thiết phải là có nhau sớm tối thì có lẽ cô ấy chỉ đang do dự, không biết có nên ở lại hay không.
Ôn Tễ nói: “Mình lấy được vé tàu du lịch quốc tế rồi, điểm đến là Hương Cảng, cậu không cần quyết định có về nước hay không đâu, cứ coi như đi chơi, không chơi thì phí.”
“Cậu lấy đâu ra vé tàu vậy?”
“Nhờ phúc của cậu đấy, tham gia tiệc rượu, ông chủ tuyển thẳng, phòng nhân sự tặng luôn.”
Ôn Tễ chớp mắt mấy cái. Hỉ Nhi không hỏi lương năm bao nhiêu, chỉ rút một tấm vé từ tay cô rồi nói: “Trong phim của Vương Gia Vệ có nói: Nếu có thêm một tấm vé, em có đi cùng tôi không? Tôi sẽ đi cùng em. (*)”
Ôn Tễ bỗng thấy sống mũi cay cay, cảm giác Hỉ Nhi đã thay đổi nhiều lắm, từ ngày hai người gặp nhau, ngồi hút thuốc sau bậc thang cửa sau bệnh viện, cô đã cảm nhận được điều đó.
Cô ấy ở bên Hứa Hoàn Vũ không phải như thế này.
“Dư Quang Trung còn viết: ‘Quê hương là một tấm vé tàu hẹp, tôi ở đầu này, cô dâu ở đầu kia.’”
Hỉ Nhi nhếch môi cười: “Được đấy, Tiến sĩ Ôn, mau về cưới Trương Sơ Việt đi.”
Ôn Tễ lấy mũ tiến sĩ gõ nhẹ vào cánh tay cô ấy.
Chuyến tàu du lịch kéo dài nửa tháng, cái gọi là “gần về quê lại bồi hồi”, trong lòng Ôn Tễ dần dần bị biến thành tấm vé mỏng manh kia, mỏng đến mức chỉ cần kéo nhẹ là rách, chẳng chứa nổi phong cảnh gì nữa.
Hỉ Nhi lắc lắc ly rượu vang đỏ, nhìn cô nói: “Cậu thà mua vé máy bay về Bắc Thành luôn cho rồi, còn tàu với thuyền làm gì?”
“Người ta tặng rồi, lãng phí thì tiếc lắm.”
Hỉ Nhi bỗng nhìn cô với vẻ nghiêm túc: “Ba năm rồi không gặp, Trương Sơ Việt… vẫn như xưa chứ?”
Vừa nhắc tới cái tên ấy, Ôn Tễ đã thấy căng thẳng, cười gượng gạo: “Ba năm thôi mà, có phải ba mươi năm đâu, đương nhiên vẫn như cũ.”
Hỉ Nhi hơi nghiêng đầu, nghi hoặc hỏi: “Ý mình nói là… anh ấy còn độc thân không?”
Ôn Tễ lập tức siết chặt các ngón tay — đây chính là điều cô lo lắng nhất.
Từ lúc lấy bằng tiến sĩ, cô đã nhắn tin cho Trương Sơ Việt, nói rằng cô sẽ ngồi tàu du lịch về nước, tầm nửa tháng.
Nửa tháng… chắc là đủ để anh chuẩn bị rồi nhỉ?
Cô không nói gì thêm, Hỉ Nhi cũng không hỏi tiếp.
“Đinh đinh đinh đinh đinh—”
Lúc này trong khoang tàu bỗng vang lên tiếng còi báo động, khiến Ôn Tễ vốn đã mỏng manh như tờ giấy giật mình đứng bật dậy. Ngay sau đó là giọng phát thanh khẩn cấp: “Xin hỏi trong khoang tàu có bác sĩ không? Có một sản phụ cần trợ giúp gấp!”
Hỉ Nhi lập tức bật dậy, Ôn Tễ cũng nhanh chóng theo cô chạy về phía quầy dịch vụ chính.
Ánh đèn vàng trải dọc hành lang tàu trong đêm, thảm móc hoa dày mềm hấp thụ tiếng bước chân vội vã.
Tàu có một phòng y tế, Ôn Tễ đứng đợi bên ngoài, chẳng bao lâu đã nghe tiếng Hỉ Nhi vọng ra: “Không được, vỡ ối rồi, phải đưa đi sinh!”
Đầu Ôn Tễ như ù đi.
“Chúng tôi không có thiết bị đỡ đẻ! Cũng không thể vì một người mà tăng tốc toàn tàu về cảng!”
“Đây là tính mạng con người! Cô ấy hoàn toàn không biết ngôi thai thế nào, lỡ sinh khó hoặc thai bị ngạt, không ai chịu nổi trách nhiệm!”
Ôn Tễ ép tim đang đập mạnh, chợt túm lấy một thuyền viên vừa bước ra hỏi: “Có thể liên lạc tàu nhỏ gần bờ không? Đưa sản phụ lên bờ ngay để vào bệnh viện?”
Đúng lúc đó, trưởng ban vận hành tàu trong phòng quay lại nhìn cô: “Tôi đi liên hệ.”
“Việc chuyển sản phụ bất ngờ sẽ rất rủi ro, nhưng từ lúc vỡ ối đến khi sinh còn chút thời gian, thưa cô, hiện cổ t* c*ng mới mở ít, muốn thuận lợi thì sản phụ nên đi lại nhẹ nhàng để thai vào đúng vị trí.”
Hỉ Nhi liên tục ra chỉ dẫn, sắp xếp mọi việc đâu vào đấy. Ôn Tễ đỡ sản phụ lên cáng, dịu dàng nói: “Chị đừng sợ, bác sĩ tên là Hỉ Nhi, nhất định sẽ giúp chị sinh được một đứa trẻ… thật vui vẻ.”
Vừa dứt lời, Hỉ Nhi bỗng ngẩng đầu nhìn cô.
Lúc này Ôn Tễ đang kéo chăn đắp lên chân cho sản phụ, cô không biết y thuật, nhưng ít nhất có thể giúp người phụ nữ ấy giữ được chút riêng tư cần thiết. Vừa ngẩng lên, cô bắt gặp ánh mắt của Hỉ Nhi.
“Cậu muốn đi cùng mình không?”
Hỉ Nhi khẽ gật đầu, ánh mắt hơi đỏ.
Trên du thuyền có xuồng cứu hộ, đi từ đây về đến bến chỉ mất khoảng hai mươi phút, kịp thời gian mở cổ t* c*ng trước sinh. Bên trong xuồng còn có khoang chìm bảo vệ, tránh gió cho sản phụ.
Thời gian gấp gáp, mọi người khiêng cáng đưa sản phụ xuống tàu nhỏ, Ôn Tễ nhanh chóng trải tấm đệm mềm sạch sẽ. Trên tàu cũng có bác sĩ đa khoa, tuy không phải chuyên khoa sản nhưng vẫn có thể hỗ trợ Hỉ Nhi chăm sóc sản phụ.
Ôn Tễ chỉ chuyên tâm đun nước sôi.
Khăn và dụng cụ đều được cô trụng nước nóng khử trùng.
Tàu nhỏ chòng chành trên mặt nước, tiếng kêu đau đớn của sản phụ vang vọng trong khoang. Ôn Tễ ép mình phải bình tĩnh, nhưng vẫn quay lưng lại giường đẻ, không dám nhìn.
Lúc này, tất cả những người có mặt trên tàu đều đang cùng sản phụ gánh vác sự sống mong manh kia. Hỉ Nhi bỗng đỏ mắt, hối hận nói: “A Tễ, sao mình lại kéo cậu theo chứ…”
Ôn Tễ rót nước vào ấm sắt, tim đập thình thịch, cô thấy trên tay Hỉ Nhi toàn là máu, mùi tanh lan khắp khoang. Ôn Tễ nói: “Em bé có quý nhân phù trợ, biết bao người đang cứu nó, chắc chắn sẽ ra đời bình an thôi.”
Lời này như nói với sản phụ — bao người đang vây quanh giúp đỡ, nếu không sinh được, cô sẽ thấy có lỗi với tất cả.
Sau một tiếng hét đau đớn xé gan xé ruột, là tiếng khóc chào đời của đứa trẻ.
Cả khoang tàu sững lại trong thoáng chốc, như vừa kết thúc một trận chiến thế kỷ, mọi xúc cảm kiệt quệ rơi vào cõi lặng.
Ôn Tễ cầm sẵn chiếc khăn vừa khử trùng xong, nhanh tay đưa cho Hỉ Nhi. Mọi người vẫn chưa thể tin nổi, nghẹn lời — chỉ có đứa bé kia, từng tiếng khóc vang lên rộn ràng chào đón chính mình đến với thế gian.
Đột nhiên, tay Ôn Tễ trĩu xuống — chiếc khăn cô đưa ra không được cầm lấy, mà thay vào đó, một đứa trẻ sơ sinh được đặt vào lòng cô.
Đầu óc cô như nổ tung một tiếng “ầm”. Hỉ Nhi cuốn chiếc khăn lại, quấn lấy đứa trẻ, nói: “Cả mẹ lẫn con đều bình an, em bé không để mẹ phải chịu khổ lâu. Là một đứa bé khiến người ta vui mừng.”
Sống mũi và khóe mắt Ôn Tễ lập tức cay xè.
Cô không biết bế trẻ con, chỉ đờ đẫn đứng đó ôm lấy, suýt nữa cũng bật khóc theo em bé.
Đúng lúc ấy, từ trên trần tàu vọng xuống tiếng bước chân, động cơ cũng dừng lại.
Giây kế tiếp, nắp sắt vuông trên nóc khoang bị người ta mở ra, ánh đèn ban đêm hắt thẳng vào.
Ôn Tễ ngẩng phắt đầu lên — một đôi mắt từ trên cúi xuống nhìn cô.
Trong bóng tối lờ mờ, những đường nét sắc sảo kia hiện lên, sâu thẳm đến nỗi khiến người ta ngỡ ngàng như gặp lại cố nhân.
Tác giả có lời muốn nói:
Anh Việt: Ai đó có thể giải thích cho tôi biết vì sao vợ tôi lại đang ôm một quả trứng trong lòng không???
–
“Biển ép nhành trúc cúi rồi lại nâng, gió thổi mỏm núi mờ rồi lại sáng.”
— Trích “Quan Vũ” của Trần Dữ Nghĩa đời Tống, ví cho cảnh tối tăm rồi lại bừng sáng, cuối cùng lý tưởng cũng thành hiện thực.
Chú thích:
Câu “Nếu có thêm một tấm vé, em có đi cùng tôi không? Tôi sẽ đi cùng em” không phải là lời thoại chính thức trong kịch bản phim “Tâm trạng khi yêu” (In the Mood for Love) của đạo diễn Vương Gia Vệ, mà xuất hiện trong một đoạn nhạc nền có lồng tiếng trong phim.
“Nếu có thêm một tấm vé, em có bằng lòng đi cùng tôi không?” — Chu Mộ Vân, In the Mood for Love
In the Mood for Love (Tâm trạng khi yêu) là bộ phim điện ảnh lãng mạn ra mắt năm 2000, do Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc cùng tham gia diễn xuất trong suốt gần 15 tháng quay hình. Phim kể về hai nhân vật chính vốn đã có gia đình riêng, dọn vào sống chung trong một khu chung cư, rồi phát hiện vợ/chồng của mình đang ngoại tình với người còn lại. Trong quá trình dò đoán và nghi ngờ, họ dần nảy sinh tình cảm với nhau. Bộ phim tái hiện không khí Thượng Hải xưa thập niên 60, ánh mắt u sầu của Chu Mộ Vân đưa người xem bước vào nỗi cô đơn tận sâu tâm khảm, còn 23 chiếc sườn xám của nữ chính Tô Lệ Trân đều mang những tầng ý nghĩa riêng, cùng nhau khắc họa sự ngắn ngủi, mong manh của một mối tình vụt qua.
Editor có lời muốn nói:
Nếu cả nhà đã đọc Bờ Biển Ánh Sao thì hẳn sẽ thấy Tâm Trạng Khi Yêu rất quen, vì cả nam nữ chính trong truyện ấy cũng cùng xem phim này =))
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.