Ba ngày sau, Trần Khinh Dao cùng Tiêu Tấn đến Thanh Mộc Thành.
Sau khi nghỉ ngơi chỉnh đốn một đêm trong thành, sáng hôm sau, hai người gửi xe lừa ở khách đ**m, rồi mang theo con khỉ nhỏ rời thành, đi leo núi.
Trên bản đồ ghi tên ngọn núi là Phù Phong Sơn. Đến chân núi, Trần Khinh Dao mới hiểu vì sao lại gọi là Phù Phong.
Vì núi quá “gầy”! Vừa cao vừa mảnh, thẳng tắp vươn lên, giống như chỉ cần một trận gió lớn thổi qua là có thể gãy ngang chẳng khác gì “nhược liễu phù phong” cả.
May mà việc leo núi đối với nàng không khó. Trần Khinh Dao mặt không đỏ, thở không gấp mà leo một mạch l*n đ*nh nhưng sau khi tìm kiếm khắp nơi từ trên xuống dưới, nàng chẳng phát hiện được gì cả đừng nói động phủ tu sĩ, ngay cả một cây linh dược cũng không có.
“Biết ngay mà, làm gì dễ tìm thế.” – Trần Khinh Dao thì thầm.
Nếu mà dễ thế, chắc dân quanh vùng đã phát hiện từ lâu rồi.
Tuy vậy nàng cũng không nản. Lấy bản đồ ra nghiên cứu một hồi rồi đứng trên đỉnh núi quan sát vị trí giữa Phù Phong Sơn, Bình Sa Giang và Thanh Mộc Thành.
Nàng cân nhắc suốt nửa ngày, đến khi mặt trời lên cao, mới vỗ tay cười rạng rỡ:
“Tìm được rồi!”
Thì ra nơi này có ẩn giấu một pháp trận. Nếu không nhờ nàng có truyền thừa về đan phù và trận đạo lại chịu khó học hỏi mỗi thứ một chút, e rằng có bới tung cả ngọn núi cũng không phát hiện ra.
Nàng quay sang Tiêu Tấn: “Đi theo ta.”
Nói xong liền vội vã xuống núi đến một khu rừng hạnh hoa ở sườn núi thì chậm lại, dặn dò:
“Ngươi đi sát sau lưng ta, bước đúng dấu chân ta. Cẩn thận, đừng phân tâm.”
Tiêu Tấn gật đầu: “Được.”
Trần Khinh Dao hít sâu một hơi, bước ra bước đầu tiên. Thân hình nàng ngay lập tức trở nên mơ hồ như ẩn như hiện.
Tiêu Tấn không dám xao nhãng, lập tức theo sát sau.
Rõ ràng chỉ là một khu rừng hạnh hoa bình thường, nhìn một cái là thấy hết vậy mà vừa bước vào, cảnh vật bốn phía lập tức biến đổi, trở nên thâm sâu khó lường.
Hai người men theo đường nhỏ, khi trái khi phải, đi khoảng mười lăm phút thì trước mắt bỗng mở rộng, hiện ra một thung lũng.
Trong thung lũng, cỏ xanh mơn mởn, suối chảy róc rách, ở giữa có một căn nhà nhỏ. Sau nhà là một rừng trúc lạ, màu xanh pha ánh tím nhạt, sương mù mờ ảo bao phủ, tựa như chốn tiên cảnh nhân gian.
Tiêu Tấn vô thức hít một hơi thật sâu. Vừa vào thung lũng, hắn cảm thấy hô hấp khoan khoái hẳn, linh lực trong cơ thể vận chuyển cũng trơn tru nhanh hơn.
“A Dao, đây là…”
Trần Khinh Dao gật đầu: “Đúng vậy. Đây chính là động phủ của một vị tu sĩ tiền bối. Ngươi có cảm nhận không? Linh khí nơi này đậm đặc hơn hẳn bên ngoài. Trận pháp vừa rồi ẩn giấu ‘trận trong trận’, có thể hội tụ linh khí về đây.”
Tiêu Tấn không khỏi tán thưởng:“A Dao thật sự hiểu biết rộng.”
Trần Khinh Dao vui vẻ nói:
“Chuyến này cho dù chẳng thu hoạch được gì khác, chỉ riêng việc được tu luyện ở nơi này thôi cũng đã đủ.”
Hai người bước vào căn phòng nhỏ. Bên trong bài trí hết sức đơn sơ: một chiếc giường, một cái bàn, cùng một chiếc bồ đoàn hương bồ đặt giữa phòng. Trên bồ đoàn có vết lõm do người ngồi lâu năm để lại, chứng tỏ nơi đây từng được chủ nhân thường xuyên sử dụng.
Chỉ là… chủ nhân nơi này không biết đã đi đâu. Nhưng giờ đã có tàng bảo đồ lưu truyền ra ngoài, hẳn là đối phương cố ý để lại cơ duyên cho hậu nhân.
Trần Khinh Dao đứng lặng, thành kính chắp tay hướng về bồ đoàn, khẽ hành lễ:
“Ta và bằng hữu cơ duyên xảo hợp mà được bước vào bảo địa này, xin đa tạ tiền bối đã để lại di trạch.”
Tiêu Tấn cũng đứng bên cạnh nàng, cùng nàng hành lễ.
Sau đó hai người mới bắt đầu đi dạo khắp gian nhà.
Trên giường và trên bồ đoàn không có vật gì, chỉ có trong tủ để vài quyển sách mỏng. Trong đó có một quyển công pháp tu chân cấp Hoàng giai, còn lại là ghi chép cơ sở về Phù văn và luyện khí.
Kế bên gian nhà chính còn có một căn phòng nhỏ, Trần Khinh Dao vừa nhìn liền nhận ra đây là phòng luyện khí. Trong phòng tuy không còn pháp khí nhưng trên giá gỗ lại bày không ít tài liệu quý dùng để luyện khí: chỉ riêng Thiên Tinh Thạch đã có hai viên, phẩm chất còn tốt hơn loại nàng từng thấy; ngoài ra còn có Thanh Lưu Li, Vô Ngân Diệp, Huyền Âm Trúc cùng nhiều loại tài liệu cấp Nhân khác.
Nàng vốn đang dự tính sau này sẽ luyện chế một chiếc bảo thuyền có thể vượt qua biển Vô Tận, có được đống nguyên liệu này chẳng khác nào tiết kiệm được một nửa công sức.
Đi tiếp ra phía sau, Trần Khinh Dao phát hiện khu rừng trúc phủ đầy sương mù. Toàn bộ đều là linh trúc. Loại trúc này không phải linh dược nhưng lại có công dụng vô cùng quan trọng được dùng để làm lá bùa.
Trong giới tu chân, bùa chú có nhiều loại với nhiều cấp bậc khác nhau nhưng ít nhất đều phải vẽ trên giấy làm từ linh trúc. Nếu chỉ dùng giấy thường, vừa chạm đến phù văn chứa linh lực thì giấy sẽ nát vụn thành bột, hoàn toàn không thể gánh chịu nổi uy lực của nó.
Trần Khinh Dao ngẩng đầu nhìn cả rừng linh trúc cao lớn xanh tím, trong lòng thầm tính toán bao nhiêu lá bùa có thể làm ra từ đây?
Xem dấu vết trong động phủ, vị tiền bối này hẳn là một luyện khí sư, thậm chí có khả năng đạt tới Nhân giai trở lên.
Phù đạo, trận đạo và khí đạo có nhiều chỗ tương thông vì chúng liên quan đến phù văn, cấm chế. Một vị luyện khí sư thường cũng có hiểu biết về hai đạo còn lại. Cho nên vị tiền bối này vừa có thể bày trận pháp bên ngoài động phủ, lại trồng nhiều linh trúc phía sau để chế tạo lá bùa, cũng là điều hợp lý.
Ngoài những thứ ấy, trong thung lũng còn mọc rải rác vài loại linh dược. Có thể là do linh khí nơi này dồi dào mà tự nhiên sinh ra, cũng có thể là do tiền bối năm xưa tùy ý gieo xuống.
Tóm lại, chuyến này, Trần Khinh Dao và Tiêu Tấn đúng là phát tài lớn.
Nàng phấn khởi quay sang Tiêu Tấn: “Chúng ta ở lại trong thung lũng này một thời gian nhé?”
Tiêu Tấn mỉm cười: “Nghe theo A Dao.”
Hai người xuống núi vào thành, trả tiền phòng ở khách đ**m, dắt theo xe lừa, tiện đường mua thêm vài thứ, rồi quay trở lại núi.
Để tỏ lòng tôn kính, bọn họ không ở trong căn phòng nhỏ của tiền bối mà dựng chỗ nghỉ tạm bên suối, ban đêm thì tựa vào xe lừa ngủ.
Còn con khỉ và con lừa xám, vừa bước vào thung lũng đã tự tìm chỗ vui vẻ chơi đùa.
Sắp xếp xong, Trần Khinh Dao liền chặt vài cây linh trúc, chuẩn bị chế tạo giấy bùa.
Kiếp trước nàng từng học qua tạo giấy trong một lớp hứng thú, dù đã lâu nhưng vẫn còn nhớ mang máng quy trình giờ có thể từ từ mò mẫm lại.
Chặt trúc, ngâm đường, ngâm nước tro, rồi nấu chưng… Hai người bận rộn không ngơi tay.
May mắn là lúc rời núi Phượng Ngọa, Trần Khinh Dao hầu như đã gom hết đồ dùng trong tiểu viện, nên giờ cũng không thiếu công cụ chế tác.
Nếu làm giấy theo cách cổ, phải ngâm cả trăm ngày mới được, quá tốn thời gian. Để tiết kiệm công sức, nàng pha ra một loại dược thủy giúp trúc mau mềm, rút ngắn công đoạn đi rất nhiều.
Vài ngày sau, mẻ giấy đầu tiên ra lò. Dù giấy còn sợi thô, dày mỏng không đều, chất lượng chênh lệch, Trần Khinh Dao vẫn lựa chọn kỹ càng, cuối cùng gạn ra được hơn mười tờ miễn cưỡng có thể dùng làm lá bùa.
Sau đó, Tiêu Tấn tiếp tục thử nghiệm chế giấy, còn nàng thì bắt tay vào việc vẽ bùa.
Tuy trước đây chưa từng họa bùa nhưng các loại Phù văn cơ sở nàng đều nắm rõ, thậm chí từng luyện chế túi trữ vật nên về cách vẽ Phù chú cũng đã hiểu.
Chu sa và thủy tinh được nghiền mịn, mài thành mực. Trần Khinh Dao chấm bút, nhắm mắt tĩnh tâm một hồi, rồi mở mắt hạ bút.
Từng nét chứa linh lực chảy ra liền mạch, như mây trôi nước chảy. Một lá phù văn hoàn chỉnh dần hiện lên trên giấy. Linh khí xung quanh lập tức bị dẫn dắt hội tụ lại, khiến tờ giấy thô ráp thoáng chốc phát ra linh quang lấp lánh, thoạt nhìn bất phàm.
Trần Khinh Dao nâng lá bùa lên ngắm nghía. Nét phù văn tuy có hơi lệch, chưa cân xứng hoàn hảo, nhưng cũng không ảnh hưởng đến công dụng. Với lần đầu vẽ bùa mà đạt kết quả như thế, đã xem như rất đáng hài lòng.
Nàng liếc mắt nhìn Tiêu Tấn đang tập trung đảo trúc bên suối, trong lòng dâng lên một ý trêu chọc, liền rót một tia linh lực vào bùa chú.
Trong nháy mắt, bùa chú liền được kích phát. Trời vốn trong xanh bỗng rung chuyển, một đám mây nhỏ từ xa bay tới, không nghiêng không lệch, ngừng ngay trên đầu Tiêu Tấn rồi mưa rơi xuống rào rạt.
Tiêu Tấn giật mình, vội lùi về phía sau, ngẩng đầu nhìn mấy bước phía ngoài vẫn còn khô ráo, trong mắt không giấu nổi kinh ngạc.
“Ha ha ha ha!” Trần Khinh Dao thấy thế thì ôm bụng cười ngặt nghẽo, cười đến nghiêng ngả.
Tiêu Tấn nghe tiếng cười mới hiểu ra hóa ra là nàng cố tình quấy phá, liền quay lại, bất đắc dĩ hỏi: “Không biết A Dao có thể khai ân cho ta mở mang kiến thức, đây rốt cuộc là thần thông gì vậy?”
“Cái này… ha ha ha” Trần Khinh Dao lại bật cười, một bên lau nước mắt, một bên giơ lên bùa chú trong tay đã thành phế phẩm: “Đây là ta vẽ Hành Vũ Phù, bình thường dùng để tưới linh điền.”
Nói cách khác, nàng vừa rồi là đem hắn “tưới nước” một phen. Nghĩ đến đó, nàng lại bật cười “phụt” một tiếng.
Tiêu Tấn chẳng giận, chỉ lắc đầu cười khổ, đón lấy bùa chú nhìn kỹ, giọng đầy cảm khái: “Trên đời này, quả nhiên có quá nhiều thứ kỳ diệu.”
Hiểu biết càng nhiều, hắn càng thấy bản thân giống như ếch ngồi đáy giếng. Trước đây chỉ vì có chút thiên phú luyện võ liền tự phụ, cảm thấy cả thiên hạ đều không bằng mình. Giờ nghĩ lại, đúng là nông cạn.
Sau khi họa thành công tấm Hành Vũ Phù đầu tiên, Trần Khinh Dao liền thử vẽ tiếp Dẫn Phong Phù, Liệt Hỏa Phù… toàn là những loại đơn giản nhất trong Nhân giai hạ phẩm. Đợi đến khi mười tấm giấy đầu tiên dùng hết, nàng đã dần nắm được chút bí quyết.
Tiêu Tấn cũng nhanh chóng làm ra được mẻ giấy thứ hai, chất lượng hơn hẳn trước, có thể dùng được hơn trăm tờ.
Trần Khinh Dao trước tiên vẽ mấy loại bùa đơn giản để làm quen rồi hít sâu một hơi, trấn định tinh thần, bắt đầu thử một phù văn phức tạp hơn.
Khác với những bùa trước chỉ hao tốn ít linh lực, lần này ngay từ lúc hạ bút, linh lực trong cơ thể nàng đã bị tiêu hao dữ dội. Đến nét cuối cùng, suýt chút nữa vì linh lực không đủ mà thất bại. May thay, nàng vẫn cố gắng hoàn thành.
Khi bùa thành, mặt giấy bừng lên linh quang rực rỡ, chất giấy thô ráp cũng biến đổi, mang theo vài phần cảm giác ôn nhuận như ngọc.
Trần Khinh Dao thở phào, lau mồ hôi trên trán. Đây chính là Phong Nhận Phù tuy cũng thuộc Nhân giai, nhưng đã là trung phẩm, cao hơn hẳn những cái trước, cũng là loại cao cấp nhất mà nàng có thể vẽ hiện giờ.
Phong Nhận Phù, nghe tên đã biết là bùa công kích. Mà nàng vẽ nó, chính là có mục đích.
Trước kia nghe Tiêu Tấn phân tích, thực lực hiện tại của nàng tuy có thể trong nháy mắt đánh bại cao thủ tam lưu nhưng nàng vẫn thấy thiếu an toàn. Nếu lần sau gặp phải sơn tặc hay ác nhân là nhị lưu trở lên thì chẳng phải nguy to? Đến lúc đó, cho dù nàng có chịu gọi “ba ba”, người ta cũng chưa chắc chịu nhận một đứa con gái như nàng.
Theo lời Tiêu Tấn, người giang hồ bình thường hành tẩu đều là nhị lưu, tam lưu. Nhất lưu trở lên phần lớn đều là gia chủ, chưởng môn, ít khi xuất hiện.
Nói cách khác, nàng ít nhất phải có khả năng đối phó nhị lưu cao thủ thì mới yên tâm tung hoành thiên hạ.
Vì vậy mới có tấm Phong Nhận Phù này.
Trần Khinh Dao gọi Tiêu Tấn tới, ngay trước mặt hắn liền kích phát bùa chú.
Chỉ thoáng chốc, một lưỡi đao gió cực kỳ sắc bén từ hư không xuất hiện, gào thét bay đi, cỏ dại ven đường đều bị chém rạp, chỉ trong một hơi thở, một đại thụ ngoài trăm mét đã bị xuyên thủng, lưu lại một vết cắt gọn ghẽ thẳng tắp.
Nhanh đến mức khiến người ta không kịp phản ứng.
Trần Khinh Dao nhìn Tiêu Tấn, trong mắt mang theo chút chờ mong: “Nếu là trước kia, ngươi có tránh thoát được không?”
Tiêu Tấn lắc đầu, chân thành khen ngợi:“Có một lưỡi đao gió này, dưới nhất lưu, sợ rằng không ai còn là đối thủ của A Dao.”
Nghe vậy, Trần Khinh Dao ngoài mặt vẫn giữ bình tĩnh, nhưng trong lòng đã ngửa mặt lên trời cười lớn:
Nhất lưu trở xuống, các ngươi đều chờ gọi ta là “ba ba” đi! Ha ha ha ha!
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.