N
hưng kể từ sau vụ tịch thu gia sản, đạo đức của ta cũng bắt đầu xuống dốc không phanh. Nhìn thấy khắp nơi là người c.h.ế.t cóng, lòng ta tê dại. Tổ mẫu mất, ta cũng không thấy đặc biệt đau lòng.
Trước kia, phụ thân từng định bán di nương để lấy tiền mua thuốc cho bà, lòng ta thậm chí còn thoáng oán giận – bà đã cao tuổi như vậy rồi, sao còn làm khổ chúng ta nữa?
Nghĩ lại, ta khinh bỉ sự vô tình của chính mình. Cuộc trốn chạy gian khổ này, không chỉ là đày đọa thể xác ta, mà còn là thử thách lớn đối với tinh thần. Ta nhận ra sự ích kỷ, vô liêm sỉ và thấp hèn của chính mình.
Dù ta đã cố gắng hết sức không quên đi điểm khởi đầu, không phụ lòng nơi mình đến, nhưng dường như ta cũng dần dần không thể kiểm soát được nữa. Ta không biết sau này mình sẽ trở thành người như thế nào. Điều này khiến ta rất sợ hãi.
Tổ mẫu cuối cùng cũng không qua khỏi năm mới này. Vì không có tiền an táng, tang lễ được tổ chức qua loa. Từ xa vọng lại tiếng pháo, một đứa trẻ nhà nào đó chạy qua phố, để lại tiếng cười trong trẻo như tiếng chuông bạc. Sau đó tiếng pháo ngày càng nhiều, mọi người bắt đầu ăn bữa cơm đoàn viên.
Từ ngày 20 tháng Chạp, nữ nhân đầu chọn ngày để ăn bữa cơm đoàn viên, phần lớn mọi người sẽ chọn vào đêm giao thừa.
Tiếng pháo vang vọng, phồn hoa như một giấc mộng.
Năm cũ qua đi, năm mới đến.
Bạo loạn, khởi nghĩa, thiên tai, nhân họa... cứ như chưa từng xảy ra.
Vào đêm giao thừa, có người đốt pháo hoa ở lầu cao, sáng rực cả bầu trời đêm. Lệnh giới nghiêm được bãi bỏ, vô số người đổ ra đường xem náo nhiệt. Chúng ta lạnh lẽo giữa phồn hoa, cứ như là người ngoài cuộc.
Chôn cất xong tổ mẫu, mọi người cũng nguôi ngoai nỗi đau, tụ tập lại tiếp tục tìm kế sinh nhai.
Người sống thì phải ăn thôi.
Phụ thân hoàn toàn không hiểu tại sao ta khăng khăng không bán tứ di nương, theo ông ấy, thiếp chỉ là thiếp, lúc nào cũng có thể mua bán được. Trong mắt ta, ông ấy rất tàn nhẫn, nhưng cách làm của ông ấy lại là chuyện thường tình trong thời đại này.
Ta không thể nói ra suy nghĩ của mình. Ta không có tình cảm với cái gọi là người nhà, nhưng lại rất có tình cảm với tứ di nương. Nàng ấy ở bên ta những lúc ta cô đơn nhất. Cho nên, ta kiên quyết phản đối bán nàng ấy đi.
Sau khi tổ mẫu mất, phụ thân lau nước mắt, vẫn tiếp tục yêu cầu chúng ta mỗi tháng phải nộp tiền. Sau khi khỏi bệnh, ta đi theo đại di nương ra ngoài làm việc, nhưng vì vụng về nên không được chọn.
Lo xong tang lễ cho tổ mẫu, mấy đứa thất nghiệp chúng ta lại ra ngoài tìm việc, tiếc là đi cả buổi trời vẫn không có kết quả. Về đến nhà với tiếng thở dài, ta bắt đầu hận bản thân mình vô dụng.
Các nữ xuyên không khác thì tài hoa ngút trời, ta chỉ nhớ được vài câu danh ngôn. Các nữ xuyên không khác thì có thể chế tạo xà phòng, tự tay làm máy bay, còn ta đến một công việc cũng không tìm được.
Ta ở hiện đại không tìm được việc làm thì thôi đi, không ngờ đến cổ đại cũng không tìm được. Quả nhiên, đồ vô dụng thì ở đâu cũng vẫn là đồ vô dụng...
Liên tục nửa tháng tìm việc không được, ta sắp phát trầm cảm. Ta nghĩ đến chuyên ngành tiếng nước ngoài của mình, ở thời đại này thì chẳng đáng gì.
Ta có thể vẽ, có kỹ thuật hiện đại, nhưng không biết người xưa có thưởng thức được không. Cứ thế mặt mày ủ rũ mấy ngày, đến tối Vương Bảo Bảo mặt mày bầm tím trở về, trong n.g.ự.c ôm một đống giấy.
"Lấy ở đâu ra?" Chúng ta kinh ngạc hỏi.
Vương Bảo Bảo nói: "Nhặt được."
Chúng ta nghi ngờ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt sưng tím của Vương Bảo Bảo. Cuối cùng, nàng cũng thừa nhận: "Thật ra... không hẳn là ăn trộm!"
Số là, hôm nay khi cả nhà đi tìm việc, Vương Bảo Bảo vô tình thấy nhà phú hộ kia phơi giấy mực nghiên bút đầy sân.
Trong đó có một số giấy đã ố vàng, chất lượng kém, họ để riêng ra định vứt bỏ. Vương Bảo Bảo từ nhỏ học việc nữ công gia chánh, nghĩ bụng hay là mình thử bán tranh chữ xem sao.
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.